“LÀM VUI LÒNG MỘT MÌNH THIÊN CHÚA”

“LÀM VUI LÒNG MỘT MÌNH THIÊN CHÚA”

Thánh Biển Đức, một bậc thầy 

dậy đường thiêng liêng cho mọi thời

Sr Loyse Morard

 “Thánh nhân không dậy gì khác với điều ngài đã sống”.

  Th. Grêgôriô (Đối Thoại, T. II,36)

        “Cảm hứng của thánh Biển Đức có thể giúp chúng ta sống với những vấn đề của chúng ta trong cuộc sống hiện nay như thế nào?”

        “Thánh Biển Đức sẽ trả lời ra sao trước câu hỏi này nữa: là tu sĩ nam nữ, chúng ta là ai ngày hôm nay?”

        Dường như các tu sĩ không ngừng bận tâm về vấn đề căn tính của mình. Từ khi Công Đồng Vatican II cổ võ “việc canh tân thích nghi đời tu”, mỗi gia đình dòng tu đều tự hỏi về vị trí của mình trong Giáo Hội, về “ý nghĩa của mình đối với thế giới”. Ngày nay, người ta vẫn còn hy vọng tìm được nơi suy tư về thánh Biển Đức một soi sáng tích cực cho chủ đề này. Những dòng sau đây mong muốn làm sáng tỏ sự thật đơn giản là trước khi trả lời câu hỏi về căn tính của chúng ta, thánh Biển Đức muốn giúp chúng ta đặt câu hỏi đó cho đúng. Thực vậy, đây là một câu hỏi muôn thủa, tự nó đã làm nên tất cả giá trị của cuộc đời con người và tu sĩ: Chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa? Công cuộc đổi mới của Công Đồng muốn bày tỏ cách minh bạch sự thật về Giáo Hội. Trong nhãn giới này, đời tu không thể không được nêu lên để suy tư và để tự phê bình. Vì đời tu bày tỏ chính mầu nhiệm của Giáo Hội. Như Giáo Hội, đời tu sống trong thế gian, nhưng lại khác với thế gian, và mặc dầu có những cố gắng thích ứng để trả lại cho đời tu giá trị một dấu chỉ dễ hiểu cho thời nay, cũng không nên ngạc nhiên nếu thế gian vẫn không hiểu được đời tu. Từ hơn mười năm nay, nhiều tác phẩm đã khai triển những thử nghiệm định nghĩa đời tu. Tất cả chúng ta đều đã thấy các viễn cảnh thay đổi vị trí từ lãnh vực pháp lý sang lãnh vực cuộc sống hướng thần, trong ngôn ngữ Kinh Thánh và Phúc Âm. Khắp nơi đều thấy những đòi hỏi thích ứng. Chúng ta đã tìm hiểu sâu hơn “đoàn sủng của các vị sáng lập”. Chúng ta muốn rằng đời tu của chúng ta phải thực là một cuộc sống, và một cuộc sống của ngày hôm nay. Để được vậy, chúng ta biết rằng những nghiên cứu hay những vấn nạn của chúng ta – dù đi xa tới đâu – cũng không miễn trừ cho chúng ta một cam kết mới, tự do, cá biệt của mỗi người chúng ta trong “cuộc chiến với Thiên Chúa”, như ông Giacop, như các tiên tri lớn của Cựu Ước, như chính Chúa Giêsu và như các vị thánh.

       Ở đây người ta nghĩ rằng có lẽ chẳng cần hỏi thánh Biển Đức. Vả lại, làm sao mà hy vọng có được soi sáng tích cực từ một bản văn đã cũ tới 1500 năm và từ một nhân vật mà hầu như người ta chẳng biết gì chắc chắn về tiểu sử cả. Chúng ta tự hỏi nhờ vào điều gì mà cảm hứng của thánh Biển Đức có thể giúp chúng ta sống vào ngày hôm nay cuộc sống và những vấn đề của chúng ta? Phải chăng chúng ta chẳng hài lòng với một suy tư sâu sắc nào đã có từ thời Công Đồng tới nay? Cái khó không phải là ở những câu trả lời nhưng ở chính câu hỏi về “căn tính” của chúng ta hay ở nội dung của căn tính ấy. Không phải các cuộc họp nhóm, các hội nghị, các nghiên cứu lịch sử hay cả những công trình thần học có thể thực sự giúp chúng ta đạt được điều chúng ta tìm kiếm, vì chúng ta không theo Chúa Kitô bằng cách thích nghi cuộc sống mình theo một chương trình bên ngoài, dù là thích hợp nhất hay vững chắc nhất về thần học, nhưng bằng việc trao hiến cuộc đời mình, cách duy nhất và độc đáo, để phục vụ Đấng mà nơi ngài chúng ta khám phá ra được ý nghĩa của đời mình. Thực vậy, câu hỏi chúng ta đặt ra là câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, và chẳng có giải đáp tĩnh cũng chẳng có giải đáp một lần dứt khoát cho câu hỏi đó. Đấy là câu hỏi của mọi thời và luôn luôn được đặt ra cho bất cứ ai muốn thành tâm tìm Chúa và sống nhân bản cách sâu xa. Thánh Biển Đức đã phải giáp mặt với câu hỏi ấy hơn ai khác.

CUỘC ĐỜI THÁNH BIỂN ĐỨC: 

       ĐI TÌM THIÊN CHÚA

        Người ta sẵn sàng nhắc lại rằng thánh Biển Đức không phải là một vị sáng lập dòng. Sự phủ nhận có vẻ hơi khiêu khích này che dấu một sự thật soi sáng cho vấn nạn của chúng ta. Như bất cứ vị sáng lập hay viện phụ đan viện nào cùng thời, thánh Biển Đức không nghĩ là ngài lập luật vĩnh viễn cho một dòng tu sẽ tồn tại lâu đời. Tu luật của ngài, được soạn thảo sau nhiều năm kinh nghiệm, là kết quả của một thực hành cá nhân và cộng đoàn, dựa theo những bộ luật đã có trước mà thánh Biển Đức không sợ sao chép khá nhiều. Giống như nhiều viện phụ đan viện ở thời ngài, thánh Biển Đức lấy lại các truyền thống, bằng chữ viết hay truyền khẩu, ngài nghiền ngẫm, thích ứng, bổ túc và làm cho phong phú hơn, tùy theo hoàn cảnh nơi chốn và thời gian, nhất là tùy theo trực cảm riêng và “đoàn sủng” của ngài. Thực vậy, đoàn sủng này hay phẩm chất đặc thù mà ngài chẳng ngờ trước cũng chẳng tìm cho có đã lôi cuốn đến với ngài những môn đệ ước mong được ngài dậy dỗ. Chẳng bao giờ thánh Biển Đức nghĩ tới chuyện lập luật cho tương lai, nhằm qui tụ những người đồng chí hướng về một công trình đặc thù sẽ thực hiện, dù công trình ấy mang tính chất hoàn toàn thiêng liêng. Chính mối tương quan đích thực của ngài với Thiên Chúa và với Chúa Kitô, cũng như phẩm chất đời sống cá nhân của ngài đã thu hút các môn đệ đến với ngài. Sau nhiều năm kinh nghiệm, ngài đã viết cho họ một bản đề nghị khiêm tốn mà ngài cho là những đường nét chính và thẳng của hướng đi họ phải dõi theo để tiến bộ trong việc tìm kiếm Chúa.

        1. Một lộ trình thiêng liêng kiểu mẫu

        Qua các thế kỷ, những vị thánh sống theo tinh thần của thánh Biển Đức đã biết diễn tả và triển khai điều ẩn chứa trong Tu Luật của ngài. Vài thập niên sau khi ngài qua đời, thánh Giáo hoàng Grêgôriô đã làm điều đó, khi đưa “tiểu sử Viện phụ đáng kính Biển Đức” vào quyển II bộ sách “Đối Thoại”  Giá trị lịch sử những sự kiện chi tiết tường thuật trong tập sách này hẳn là có thể tranh cãi, vì loại văn chương được xử dụng. Nhưng người ta nhất trí nhìn nhận rằng ít ra những giai đoạn chính của cuộc đời thánh Biển Đức phù hợp với các biến cố được kể lại. Thánh nhân được trình bày như một người “trở lại từ nếp sống đơn độc”. Tiến trình dẫn đưa ngài từ cuộc sống ẩn tu nghiêm ngặt tới việc sáng lập và tổ chức chu đáo những cộng đoàn cộng tu thật là có ý nghĩa. Tiến trình này ngược lại với thứ tự truyền thống – như Tu Luật có nhắc tới – đặt đời sống ẩn tu lên cao nhất. Chính vì thánh Biển Đức đã có nhận định về quá khứ khi so sánh với kinh nghiệm riêng của ngài. “Một khi sống đời cộng tu, ngài không bao giờ nuối tiếc cảnh đơn độc quá khứ” . Thánh Grêgôriô, vừa làm Giáo Hoàng vừa là đan sĩ, bị giằng co giữa những đòi hỏi của sứ vụ và sức thu hút của chiêm niệm, đã đề nghị phát triển đời sống thiêng liêng theo cách thức thánh Biển Đức đã sống. Rõ ràng ngài gửi gắm vào tiểu sử thánh Biển Đức những ước muốn riêng của mình; thế nhưng “chương trình thiêng liêng” hình thành từ sách Đối Thoại lại hoàn toàn am hợp với chương trình của Tu Luật . Thánh Grêgôriô mô tả chương trình ấy theo các giai đoạn cuộc đời thánh Biển Đức và ngài giải thích ý nghĩa những giai đoạn ấy cũng như những việc lạ nhiều ít mang tính truyền thuyết để minh họa cho từng giai đoạn, cốt yếu là dưới ánh sáng Thánh Kinh. Quả thực, Lời Chúa là tia sáng giúp ta phán đoán các biến cố, giúp ta qua các biến cố ấy khám phá ra và theo đuổi ý nghĩa cuộc đời. Thay vì “chương trình” nên nói tới hành trình, bởi vì rõ ràng đây không phải là một chương trình đã được xếp đặt sẵn mà thánh Biển Đức – và đến lượt chúng ta – chỉ cần thực hiện cho đúng là được. Trong sách Đối Thoại cũng như trong Tu Luật, đó là một cuộc sống, giáp mặt với mọi rủi ro trong cuộc mạo hiểm của con người, một con người vật lộn với Thiên Chúa, đấng thách thức họ từ trong nơi sâu thẳm nhất của lòng họ và vượt qua họ từ mọi phía.

        a) “Làm vui lòng một mình Thiên Chúa”

        Chàng thanh niên Biển Đức, xuất thân từ dòng quí tộc nông thôn Italia, được gửi đi học ở Rôma, một thủ đô hoang tàn về mặt chính trị. Những cơ sở đế quốc xưa kia vẫn còn tồn tại, nhưng thành phố cùng với toàn thể Italia đã nằm dưới quyền cai trị của người Goth và vua của họ là Théodoric. Chính Giáo Hội thì bị xâu xé bởi ly giáo: một giáo hoàng được bầu chọn bình thường, gắn bó với giáo lý chính thống và sự độc lập về chính trị của Giáo Hội, đối đấu với một phản giáo hoàng được hoàng đế Đông Phương ủng hộ và sẵn sàng hy sinh sự toàn vẹn đức tin vì sự thống nhất của đế quốc . Trong bối cảnh khủng hoảng lan tràn này, người ta có thể tưởng tượng một thanh niên kitô giáo, say mê lý tưởng, thấy mình được thúc đẩy phải có một chọn lựa triệt để, có lẽ nhờ tiếp xúc với những điều vĩ đại duy nhất chính thực và tinh tuyền còn tồn tại ở Rôma: những di tích của Giáo Hội thời các tông đồ và các vị tử vì đạo. Khi ấy, vì “muốn làm vui lòng một mình Thiên Chúa”, Biển Đức “rút lui, đành ngu dốt cách sáng suốt và thất học cách khôn ngoan”, yêu chuộng sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa hơn danh giá và sức hấp dẫn của kiến thức loài người. Được “bà vú nuôi” tháp tùng, Biển Đức đi tới một ngôi làng gần đó, nơi đây ngài cư ngụ gần bên nhà thờ, và ngài tìm kiếm “nơi những con người đáng kính” một hướng đi cho đời mình. Trước cảnh suy đồi phong hóa của người Rôma, ngài không bận tâm đến chuyện “phục hưng”. Người ta không thấy ngài thắc mắc về vị trí của mình trong thế gian và trong Giáo Hội. Giữa hoàn cảnh cụ thể của mình, ngài đã có một quyết định triệt để tách biệt ngài khỏi tất cả để chỉ qui hướng về một mình Thiên Chúa. Đó không phải là trốn chạy. Trong việc từ khước thăng tiến một cách nào đó về nhân bản và văn hóa, ngài ý thức mình đã tích cực chọn lựa một sự khôn ngoan cao hơn. Phần tiếp theo của trình thuật về cuộc đời ngài mô tả cho chúng ta thấy con đường đi tới sự khôn ngoan đó, con đường này luôn luôn được hướng dẫn bởi hai từ “soli Deo” (một mình Thiên Chúa).

        Dọc theo con đường này rải rác có các biến cố mà một cách bất ngờ và rất thường gây sửng sốt sẽ đưa ngài tới một lựa chọn luôn luôn được hình thành “dưới cái nhìn của Thiên Chúa”, chiếu theo Lời Ngài hay “nhờ bởi ơn trên”. Quả thực mỗi quyết định là một chiến thắng trên thử thách. Hơn nữa, khi bước vào một giai đoạn mới của đời sống nội tâm, quyết định ấy cho thấy Biển Đức lại bất ngờ gây thêm ảnh hưởng trên những người khác. Trải qua thử thách này tới thử thách khác, Biển Đức vừa đạt tới mức trưởng thành đầy đủ về đời sống thêng liêng, vừa củng cố vững chắc điều mà người ta gọi là “công trình của đời ngài”, tức là việc thành lập đan viện Monte-Cassino. Những điểm đặc thù cho thấy sự trưởng thành thiêng liêng đó là, xưa cũng như nay, sự giải thoát khỏi chính mình, việc dần dần làm chủ các dục vọng khép kín con tim lại nơi mình, cản trở nó siêu thoát và quảng đại rộng mở với Thiên Chúa và với tha nhân. Về phương diện này, thử thách đóng vai trò mạc khải trong cuộc đời Biển Đức. Biến cố là cơ hội cho thử thách tỏ ra rất mơ hồ: mỗi lần Biển Đức lại phải chọn lựa, không phải giữa điều tốt điều xấu, nhưng giữa điều tốt có thật, chắc chắn, trực tiếp, rất rõ ràng – ngay cả nếu nó có vẻ thiêng liêng – và một Thực Tại dấu ẩn, vô hình, chỉ nhận ra được ở bên kia bản thân, như một tiếng gọi, một sự mở toang ra về phía một người xa lạ không bao giờ đạt tới được. Chọn lựa ấy không dễ làm. Sống mà như chết, không gì khác có thể soi sáng cho lựa chọn ấy ngoại trừ ý thức cá nhân về tiếng nài nỉ của Thiên Chúa, “một mình Thiên Chúa” mà Biển Đức muốn làm vui lòng; mỗi lần ngài lại từ chối tất cả những gì có thể lôi kéo mình, dù là cách chính đáng, xa khỏi đồng minh duy nhất này.

        b) Ngờ vực thành công

        Ở Enfide, một ngôi làng hẻo lánh mà Biển Đức đi tới, có bà vú nuôi đi theo, bà này, như thánh Grêgôriô kể, làm bể cái rây mượn của người ta. Xúc động trước sự ân hận của bà vú nuôi, Biển Đức lượm các miếng rây bể rồi thầm thĩ cầu nguyện. Khi cầu nguyện xong, ngài thấy cái rây lành lặn như trước. Ngài an ủi bà vú nuôi và trao cái rây lại cho bà. Mọi người đều biết và rất thán phục (x. ĐT II, 1,1-2). Sau sự kiện này, không những Biển Đức quyết định trốn tránh hư danh mà cụ thể hơn nữa ngài từ chối chấp nhận rằng mình có đặc sủng để làm những điều như thế. Sách Đối Thoại kể tiếp: “Biển Đức thích chịu đau khổ ở thế gian hơn là được ca ngợi, vất vả làm việc cho Chúa hơn là vênh vang vì ân huệ của đời này. Ngài lén lút bỏ bà vú nuôi và tìm vào sống ẩn dật trong sa mạc…” (ĐT II, 1,3). Tuy nhiên, phải chăng trong niềm cảm thương mãnh liệt và lời cầu nguyện tha thiết của ngài, ta nhận ra được thánh ý Thiên Chúa đã đưa ngài vào sa mạc để làm ánh sáng chiếu tỏa cho những ẩn sĩ sống chung quanh ngài, làm một chứng nhân cho Chúa nơi các môn đệ tìm đến với ngài? Một hồng ân Thiên Chúa ban như thế lại đã chẳng giúp ngài thu lượm được những kết quả tông đồ tốt đẹp trong thời gian khủng hoảng này sao? Trước sự khó hiểu của biến cố ấy, làm sao lại không cảm phục sự sáng suốt thiêng liêng đã giúp cho một thanh niên trẻ tuổi như thế đánh tan cạm bẫy của ma quỉ? Lại không cần một tình yêu tinh ròng để nhận ra rằng sự kiện ấy chỉ liên can tới một mình Thiên Chúa thôi sao? Dù sự thật lịch sử của sự kiện được kể lại có ra sao, ý nghĩa của sự kiện ấy không kém phần gương mẫu; đó là bước đầu trong đời sống thiêng liêng. Biển Đức phân biệt được, ở mức độ cuộc tìm kiếm của mình, cái vẻ bề ngoài dối trá của sự thành công và ngài dứt khoát xa lánh.

        Ba năm để trưởng thành trong cô tịch tuyệt đối sẽ đưa Biển Đức tới một thử thách mới khi ngài tiếp xúc với con người. Thực vậy, ngày lễ Phục Sinh, Biển Đức đón tiếp người khách đầu tiên đến thăm và mang cho ngài bữa ăn để mừng lễ với những lời này: “Nào, ăn đi, vì hôm nay là lễ Phục Sinh!” Chẳng hay biết gì về thời gian phụng vụ, Biển Đức hồn nhiên thốt lên: “Đúng là lễ Phục Sinh, vì tôi hân hạnh được gặp anh!” (ĐT II,1,7). Sau nhiều năm xa cách, từ nay ngài tiếp xúc với mọi người một cách hoàn toàn mới. Chính trong giai đoạn này, ba thử thách quyết liệt đã đến tấn công ngài. Trước hết, ngài phải đương đầu với những nhu cầu của xác thịt, và “được ơn trên đánh động” ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng dứt khoát. Từ đó, các môn đệ bắt đầu kéo đến với ngài. Ngài sẵn sàng hướng dẫn họ trên đường về với Thiên Chúa (x. Đt II,2,1-3). Đó là lúc xẩy đến thử thách thứ hai.

        c) Đừng tưởng mình cần thiết cho phần rỗi của người khác

        Sau khi chấp nhận điều hành một đan viện ở gần đó, ngài bị các đan sĩ bất mãn về sự thẳng thắn, nhiệt thành và những đòi hỏi của ngài, âm mưu đầu độc. Đó là thất bại ngay tại nơi xem ra Thiên Chúa gọi ngài tới. Thế là “không hề bực bội, tâm hồn vẫn thanh thản, ngài xin Chúa thương xót anh em, rồi trở lại chốn cô tịch thân thương để ở đó với chính mình dưới cặp mắt của Đấng Tối Cao” (ĐT II,3,5). Không tỏ dấu tức tối, cay chua hay bực bội, cũng chẳng tỏ dấu muốn níu kéo lại cái đã mất, nhượng bộ hay sửa chữa cái vô phương cứu chữa. Chẳng có thái độ nào khác ngoài ra lòng khiêm tốn thực sự, không hề bận tâm tới bản thân, một lòng khiêm tốn giúp Biển Đức kiên trì thực hiện dự phóng cơ bản của đời mình: “làm vui lòng một mình Thiên Chúa”.  “Ở với chính mình”, không phải là khép kín nơi mình, nhưng dưới cặp mắt của Thiên Chúa: để từ bỏ tất cả, bỏ cả mong muốn thành công trong sứ mệnh hướng dẫn và cứu vớt các linh hồn. Cái chết mới này dẫn đưa ngài tới một cuộc sống mới. Nơi sa mạc, các môn đệ kéo đến, đây là những môn đệ chính danh, thành tâm muốn phụng sự Chúa. Họ đông tới độ, ngay ở Subiaco Biển Đức phân phối họ thành không dưới mười hai đan viện, là biểu trưng cho Giáo Hội mà ngài có thể góp phần xây dựng bằng cách chết đi với Chúa Kitô.

        d) Nhường chỗ vì yêu thương người khác

        Cũng chính từ Giáo Hội đã xẩy đến cho ngài thử thách cuối cùng, thử thách khốc liệt nhất trước khi ngài đạt tới tầm vóc thiêng liêng đầy đủ. Một linh mục gần đó, ghen tương vì danh tiếng và ảnh hưởng của ngài, sau khi đầu độc ngài không được, “đã bị thiêu đốt, như thánh Grêgôriô nói, bởi ước muốn giết linh hồn các môn đệ ngài”. Trước mối đe dọa này, sự từ bỏ sáng suốt của Biển Đức còn đi xa hơn nữa như chưa từng có. Đây không chỉ là chết cho hư danh, cho ích kỷ xác thịt hay tham vọng thành công trong việc tông đồ; như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, dịp này Biển Đức “chết đi” chỉ vì người khác. Để làm thỏa sự ghen tương của kẻ thù, và nhờ đó mà cứu lấy các anh em mình, ngài nhường chỗ và ra đi “khi khiêm tốn tránh sự ghen ghét” (ĐT II,8). Tính cách tuyệt đối và dứt khoát của việc ra đi lần sau cùng này còn được tăng cường bằng sự kiện bất ngờ là cái chết của đối thủ, như thể bị phép công thẳng của Thiên Chúa báo oán. Biển Đức không nghĩ như vậy. Ngài khiển trách người môn đệ đã cả dám vui mừng vì kẻ thù phải chết và ngài nhất quyết đi khỏi nơi ấy. Tôi nghĩ rằng lộ trình thiêng liêng đã đạt tới một đỉnh cao. Từ lúc này, Biển Đức dứt khoát cư ngụ tại Cassiano, cách xa hơn 100 cây số, ở đó, như thánh Grêgôriô nói, từ nay với sự nâng đỡ của lời cầu nguyện ngài đương đầu với “chính Thủ Lãnh sự dữ” (ĐT II,8,10).

        2. Một lộ trình vượt qua: 

            từ cái chết tới tình yêu phong phú

        Chúng ta ngạc nhiên trước sự từ bỏ triệt để như thế, dường như ngược lại với ơn gọi của Biển Đức, gây thiệt hại cho công trình tốt đẹp nhất của ngài và làm cho những mong ước chính đáng nhất của các môn đệ bị tiêu tan. Thánh Grêgôriô giải thích rằng không gì có thể biện minh cho một thái độ như thế nếu không phải là Thần Khí của Chúa Giêsu, đấng Công Chính duy nhất, đấng đã biểu lộ quyền năng của mình “khi chết trước mặt những kẻ kiêu căng và sống lại trước mặt những kẻ khiêm nhường” (ĐT II,8,9). Hoàn toàn nên giống Chúa Kitô và “đầy tinh thần của những người công chính” (ĐT II,8,8), từ nay Biển Đức triển khai một cuộc sống phong phú về mọi phương diện. Tới Mont-Cassin tức là ngài gây ảnh hưởng trên những người ngoại giáo khi đưa họ về với đức tin. Ngài thiết lập nơi đó “công trình của đời ngài”, tức là xây một đan viện trên đống đổ nát của một ngôi đền ngoại giáo. Ngài sẽ là người cha của đan viện này và là nhà lập luật theo cách thức mà Tu Luật của ngài vạch ra. Trong Tu Luật đó người ta có thể nhận thấy phản ánh chính xác bản thân và cách sống của ngài vì, như thánh Grêgôriô nói, “thánh nhân không dậy gì khác với điều ngài sống” (ĐT II,36).

        Nhưng hành trình thiêng liêng và việc từ bỏ của ngài chưa kết thúc ở đó. Về cuối đời ngài biết rằng chính công trình này sẽ tiêu tan. Thực vậy, ít lâu sau khi ngài qua đời, quân Lombards đã phá hủy toàn bộ đan viện, các đan sĩ buộc lòng phải chạy trốn. Chúng ta biết rằng nhờ có các đan sĩ biển đức đầu tiên di tản tới Roma nên Tu Luật của thánh Biển Đức đã được biết đến tại thành phố này; từ nơi đây nhờ thánh Grêgôriô Tu Luật đã được phổ biến rộng rãi và mãi tới ngày nay chúng ta vẫn còn được thừa hưởng. Cuộc đời trần gian của Biển Đức kết thúc trong ánh sáng; đó là ánh sáng tình yêu có được mọi sự và giá trị của nó trổi vượt cách tuyệt đối trên những yêu sách của khổ chế và việc nắm giữ luật lệ, thứ ánh sáng làm con tim rộng mở tới độ cho nó có thể bao quát toàn thế giới dưới một cái nhìn duy nhất. “Thiên Chúa là tình yêu và ai yêu mến ngài sẽ mở rộng tâm hồn tới vô cùng tận” (ĐT II, 33-35). Tất cả những gì thánh Biển Đức loại khỏi tầm nhìn của ngài, trong ước vọng làm vui lòng một mình Thiên Chúa, đều đã được hoàn trả lại cho ngài. Những đoạn cuối cùng được thánh Grêgôriô kể minh họa cách hoàn hảo bản văn Tu Tuật mô tả đích điểm của con đường thánh Biển Đức muốn dẫn đan sĩ tiến lên: “Khi đã trèo lên được tất cả các bậc khiêm nhường, đan sĩ sẽ mau chóng đạt tới lòng mến Chúa hoàn hảo loại bỏ sợ hãi. Nhờ lòng mến này, những gì họ tuân giữ vì sợ, họ sẽ giữ được cách dễ dàng như tự nhiên vì lòng mến Chúa Kitô…”, có thể nói là vì vui thích…(x. TL, 7). Vì “càng tiến tới trong cuộc đời thánh thiện và trong đức tin, tâm hồn sẽ rộng mở, và khi đó với một tình yêu dịu ngọt khôn tả người ta chạy trên đường giới răn Chúa…”. Bản văn Lời Mở Đầu của Tu Luật kết thúc bằng những lời này: “Bền chí sống trong đan viện tới chết, chúng ta sẽ nhờ nhẫn nại mà dự phần vào những đau khổ của Chúa Kitô để được nhận vào Vương Quốc của ngài”.

        II. TU LUẬT BIỂN ĐỨC: 

          TRỞ VỀ VỚI CHÚA KITÔ 

          TRONG ĐỨC ÁI HUYNH ĐỆ

        Vậy chính trong đời sống cộng tu, đời sống chung trong đan viện, mà khi còn là ẩn sĩ và sau một kinh nghiệm lâu dài và gian khổ, thánh Biển Đức nhìn thấy con đường ưu tuyển, nơi cuối đường người nào “ước muốn làm vui lòng một mình Thiên Chúa” sẽ đạt được điều họ tìm kiếm. Con đường này đi theo lộ trình Chúa Kitô đã trải qua, lộ trình của tự hủy và của tình yêu. Nó hướng về một mục đích duy nhất. Mục đích ấy không phải là một công trình phải thực hiện, một cuộc canh tân phải hoặch định, một chứng tá phải đề xuất, dù là chứng tá của một linh đạo cao nhất. Cuộc sống mà thánh Biển Đức đã sống và cuộc sống mà Tu Luật của ngài yêu cầu không có gì là đặc biệt cả. Ngài trọn vẹn được thu hút vào một Nhân Vật: đó là Thiên Chúa, không phải Thiên Chúa được nhận ra trong một trực giác tôn giáo mơ hồ, nhưng là một Thiên Chúa nói trong Thánh Kinh, hiện thân nơi Chúa Kitô và chúng ta gặp được cách cụ thể nơi nhũng người anh em cùng chia sẻ cuộc sống với chúng ta.

        1. Lắng nghe: một thái độ căn bản

        Tiếng đầu tiên của Tu Luật nói lên tất cả cường độ của mối tương quan này. Khởi đi từ tiếng đó, có thể suy diễn điều cốt yếu không những của linh đạo Biển Đức mà của cả những áp dụng cụ thể nữa. Tiếng đầu tiên đó là “Ausculta” (Hãy lắng nghe). Tiếng đó mời gọi phải có một thái độ mà thiếu nó sẽ không thể có đối thoại, không thể có tương quan cá nhân đích thực, cũng chẳng có thăng tiến nhân bản. Thánh Biển Đức mời gọi đan sĩ cởi mở; không phải sự cởi mở làm tan rã mối liên kết nội tâm vì ôm đồm hàng ngàn chuyện phụ thuộc, nhưng cởi mở với Đấng Khác, nhờ sự cởi mở này mối hiệp nhất hữu thể được thiết lập, vì tất cả đều qui tụ quanh một trục. Khi yêu cầu môn đệ lắng nghe như thái độ đầu tiên và cơ bản, thánh Biển Đức xác định ngay rằng cuộc sống của môn đệ phải tập trung trên Lời của Đấng Khác. Để tìm Chúa, phải dám liều lĩnh mà tin vào Lời ngài. Không phải ngẫu nhiên mà trong Thánh Kinh không bao giờ Thiên Chúa mạc khải mình qua thị kiến – vì người ta không thể trông thấy Thiên Chúa mà lại không chết – nhưng qua việc lắng nghe. Thị kiến có tính cách trực tiếp không tôn trọng sự siêu việt của Thiên Chúa cũng như tự do của con người. Trái lại, Lời chỉ đơn thuần là đề nghị; nó cần được đón nhận, giải thích, am hiểu trước khi gợi lên một đáp trả và thiết lập đối thoại. “Từ mặc khải tự nhiên về Thiên Chúa trong hình ảnh tới mặc khải nơi Lời ngài có một bước tiến khổng lồ” . Tiếng đầu tiên của Tu Luật giả thiết rằng Lời này đã nói ra và đủ mạnh để chuyển hướng một cuộc đời. Bản văn Tu Luật tiếp: “như thế, nhờ công việc của đức vâng phục con sẽ trở về với Đấng con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân” (LMĐ 2).

Sự trở lại bằng vâng phục

        Lời Thiên Chúa, đương nhiên và trước hết là Chúa Kitô. Theo thánh Biển Đức, Chúa Kitô ngỏ lời với ai muốn theo ngài nhờ trung gian của ông “thầy” hay của người “cha” là chính thánh nhân trong Tu Luật của ngài. Nhưng đối tượng để nghe lại vượt xa hẳn những lệnh truyền mà một bề trên ra cho anh em mình, dù là thánh Biển Đửc. Việc lắng nghe và những lời giáo huấn không có mục đích nào khác hơn là giúp đan sĩ am hiểu mầu nhiệm cứu chuộc cách hữu hiệu và cụ thể. Ngay từ những hàng đầu của Tu Luật, khi thánh Biển Đức đối chọi tính ươn lười bất tuân với công việc đức vâng phục, ngài tóm tắt bằng những tiếng có tầm vóc giáo lý rất mạnh tất cả tiến trình khổ hạnh đan tu khi xây dựng tiến trình ấy trên việc đồng nhất với Chúa Kitô. Cần nhận biết rằng đoạn văn này không phải là một lời khích lệ có tính luân lý, nhưng là một qui chiếu tới tư tưởng của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma đặt đối diện công việc của tội với công việc của ơn thánh, sự bất phục của Ađam với sự vâng phục của Chúa Kitô. Sự bất phục của Ađam, đó là “ách nô lệ của tội lỗi” trong nhân loại bị để mặc cho sức riêng mình và trong lòng mỗi người. “Sự vâng phục của Chúa Kitô”, đó là cái chết vinh quang của ngài đã đổ tràn ơn thánh để công chính hóa tội nhân và mở đường cho họ vào sự sống vĩnh cửu. Đấy là những nhãn giới rất rộng thánh Biển Đức đã có khi mở đầu Tu Luật. Đó là “lời” đan sĩ phải quan tâm và đáp trả; là mầu nhiệm của Thiên Chúa nhập thể và chết để khai mở cho chúng ta sự sống của ngài; đó không là gì khác hơn là Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Chúa Kitô.

        Quan điểm thánh Biển Đức bày tỏ trong Lời Mở Đầu thật là lạc quan. Đó là “chiến đấu dưới cờ Chúa Kitô, Đức Vua đích thật” bằng “những vũ khí hùng mạnh và vinh quang”. Thánh Biển Đức thông truyền cho cuộc chiến khổ hạnh một khí thế thần bí thực sự, một sức mạnh đến từ việc tất cả cuộc chiến đều vì Chúa Kitô. Cha Varillon viết: “Thần bí là lãnh trách nhiệm để chỉ là mình nhờ người khác, tức là vì người khác. Chúa Ba Ngôi là mẫu mực cho cái “nhờ’ và cái “vì” này, với danh xưng bác ái chúng là bí quyết cho mọi bước tiến của con người” . 

        Trong nhãn giới này, khổ hạnh được đề nghị cốt yếu mang tính tự do. Người ta có thể bắt ai đó phải hành động – phải làm ra vẻ phục tùng – nhưng không thể bắt ai lắng nghe. Trước khi thực hiện một lệnh truyền bên ngoài, đầu tiên vâng phục phải là đón nhận, là ra khỏi mình, là tác động tình yêu tự do và có ý thức. Không có vâng phục theo cách khác. Thánh Biển Đức xác định ở chương 5 của Tu Luật: “Nếu môn đệ vâng phục vì miễn cưỡng, chẳng những kêu ca ngoài miệng mà cả trong lòng, thì dù họ có làm đúng theo lệnh truyền, việc làm đó cũng chẳng được ơn ích gì mà còn đáng chịu hình phạt dành cho những người kêu ca lẩm bẩm”. Thánh Biển Đức ám chỉ những người Israel trên đường về Đất hứa, những người ấy đã không được Chúa cho “vào nơi an nghỉ của ngài” (Tv 94,11). Đó là những người “đã từ chối cuộc mạo hiểm khó khăn trong sa mạc” . Chúng ta thấy tính nghiêm trọng của vấn đề. Lời mời gọi lắng nghe huy động lương tâm, làm cho ta “mở mắt ra trước ánh sáng của Thiên Chúa” (LMĐ 9), một ánh sáng đoán xét chúng ta và cho thấy tính cực kỳ nghiêm túc của cuộc đời.

Kính sợ Chúa và khiêm nhường

        Thật có lý khi người ta nhấn mạnh tới tính nghiêm chỉnh nơi thánh Biển Đức. Tính này phát xuất từ việc liên tục chú tâm vào một lời mời gọi, vào một sự hiện diện: “hôm nay nếu anh em nghe tiếng Người”. Lời mời gọi đó là mời gọi hành động: “vậy hãy đứng lên”. Sự hiện diện đó là hiện diện của Thiên Chúa giữ cho đan sĩ thường xuyên tỉnh thức, mắt hướng về cùng đích của muôn loài, về cuộc gặp gỡ sau cùng với Chúa, về “việc phán xét đáng sợ” (TL 7,64).

        Cần nhắc lại rằng cuộc đời đan sĩ không được nhắm tới một thứ hoàn hảo phải thực hiện; nhưng nó được hướng về cuộc gặp gỡ sẽ xẩy ra ở đầu cây thang khi ta leo tới bằng việc hạ mình nhờ đức khiêm tốn, theo lộ trình thánh Biển Đức vạch ra ở chương 7 của Tu Luật. Lộ trình này khởi đầu từ ý thức về sự hiện diện của Chúa, rồi đi qua tất cả các giai đoạn cụ thể của việc quên mình, nhờ vâng phục, nhẫn nại trước nghịch cảnh, ngay cả trước những xỉ nhục, xóa mình đi, chừng mực, cởi mở tâm hồn và sáng suốt về bản thân: dưới ánh sáng của Chúa, người khiêm tốn thấy mình là kẻ rốt hết và chấp nhận bị đối xử như vậy. Họ sống trong thái độ khiêm tốn sâu thẳm và chân thật, thái độ đã làm cho người thu thuế trong Phúc Âm trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa (x.Lc 18,13-14; TL 7,65). Được đưa về với thực trạng của mình, họ được đồng hóa với Chúa Kitô. Trái tim họ, đã được đức khiêm tốn đào luyện, rộng mở trước tình yêu Thiên Chúa là động lực duy nhất cho mọi hành động của họ. Từ nay, tác động của Thánh Thần được bày tỏ nơi họ. Đối với thánh Biển Đức, khiêm nhường không phải là một nhân đức có được nhờ gắng công luyện tập hay nhờ thói quen; nó tương ứng với trạng thái đích thực của hữu thể trước mặt Thiên Chúa. Những biểu lộ cụ thể của khiêm nhường không thể là kết quả của tập dượt, chúng hoàn toàn được xây dựng trên mối tương quan với Thiên Chúa. Cùng với tình yêu mà nó không thể tách rời và là đỉnh cao của nó, khiêm nhường là một nhân đức “đối thần”.

        4. Cầu nguyện: lắng nghe Lời Chúa

        Chăm chú nghe Lời Chúa là bước quyết định đưa đan sĩ tới hoán cải. Động lực cần thiết giúp thực hiện cuộc đổi đời là một lời đáp trả. Động lực ấy phải được liên tục nuôi dưỡng từ nguồn mạch đích thực. Chính nơi Chúa Kitô hay nơi Lời Chúa mà, trong cầu nguyện, khi bắt đầu mọi việc, đan sĩ tìm được sức mạnh để hoàn thành. Không bao giờ nghe Lời một lần là đủ, cuộc đối thoại cứ liên tục tiến triển. Trong đời sống cụ thể, Lời Chúa đòi phải có những tác phong mẫu phác họa nên những sinh hoạt bên ngoài của cuộc sống đan tu. Người ta có thể nhận ra những sinh hoạt chung và cơ bản cho mọi cuộc sống kitô giáo chứ không chỉ là riêng biệt hay dành riêng cho cuộc sống đan tu. Nhưng nếu thiếu những sinh hoạt ấy, cuộc sống đan tu sẽ mất ý nghĩa và sụp đổ. Trong những sinh hoạt ấy, phải kể trước hết là thần vụ và mọi hình thức cầu nguyện khác xuất phát từ thần vụ, cầu nguyện riêng và thinh lặng, đọc sách thiêng liêng, suy niệm… Điều cần có trong những sinh hoạt ấy, không phải là “luyện tập” hay kỷ luật phải giữ, nhưng là đón nhận Lời Chúa trong Thánh Kinh, như được phụng vụ trình bày, nghĩa là cốt yếu qui chiếu về mầu nhiệm Chúa Kitô và về ơn cứu độ chúng ta. Thần vụ không phải là một công việc như bao việc khác của đời đan tu. Thần vụ là một cách thức đặc biệt và ở cao độ của sinh hoạt thiêng liêng làm cho toàn bộ cuộc sống đan tu đứng vững . Cầu nguyện đan tu, được Lời Chúa nuôi dưỡng, là lời đáp ngắn gọn và tinh tuyền, trào lên nhờ tác động của Thánh Thần, sau một thời gian lâu dài lắng nghe (x. TL 20). “Nghe tiếng Chúa là bước đầu cần thiết cho suy niệm” . Ta hiểu được tầm quan trọng cốt yếu của thần vụ và đọc sách thiêng liêng trong đời sống đan tu. Cả hai đều là nơi chốn tuyệt vời để khởi sự và duy trì cuộc đối thoại với Chúa, vừa là đích điểm con đường dẫn tới vừa là chính con đường phải đi. Chỉ nguyên mình nó thôi, khả năng qui chiếu hiển nhiên và lâu dài về Lời Chúa là yếu tố hiệp nhất và quân bình hóa trong sự lưu chuyển của thời gian, như một chốn nghỉ ngơi an toàn, nơi đó lúc nào người ta cũng có thể uống trực tiếp tận nguồn mạch sự sống.

        5. Thinh lặng

        Cũng trong bối cảnh này, ta thấy sáng lên giá trị của thinh lặng. Đây không phải chỉ là thinh lặng bên ngoài để tạo một khung cảnh tâm lý – dù điều đó là quan trọng – nhưng một thứ thinh lặng phát sinh từ khuynh hướng bản thân muốn im lặng để nghe, để chăm chú. Thinh lặng ấy cho thấy rằng trái tim, tinh thần, mối bận tâm sâu xa đều được xử dụng, được tập trung lại. Thinh lặng ấy là một thành tố và là một giai đoạn của thái độ luôn luôn đang tiến lên từ ý thức về sự hiện diện của Chúa tới việc quên mình hoàn toàn trong tình yêu (x. TL 7). Nhưng vì là con người có óc thực tế và giáo lý của ngài trực tiếp phát xuất từ cuộc sống cụ thể, nên thánh Biển Đức cũng đề cao và nhấn mạnh giá trị luân lý của thinh lặng, như một cách giúp tránh tội. Việc giữ gìn lời nói là trợ lực quí báu cho đức ái huynh đệ. Tất nhiên sự câm nín triệt để cũng có khi làm tổn thương đức ái và, theo nghĩa đó, luật thinh lặng không hề bắt phải câm nín như vậy. Nhưng, theo lời Thánh Kinh , thánh Biển Đức biết rằng khi nói nhiều “dù nói những điều xây dựng và tốt lành”, sẽ không tránh khỏi tội. Khuynh hướng thích thổ lộ bằng nhiều lời chứng tỏ một tâm trí không chăm chú vào một điều gì cả và do đó còn quá bận tâm đến mình. Như thế làm sao mà tránh gây nên điều xấu bởi những lời nói trào ra từ con tim chưa được giải thoát khỏi chính mình nhờ tình yêu và sự chăm chú lắng nghe Đấng Khác?    

        6. Lắng nghe người khác     

         Lắng nghe Lời Chúa không giới hạn ở cầu nguyện và suy gẫm. Khi trở lại với đời sống cộng tu, thánh Biển Đức – trong đường hướng của Phúc Âm – thấy nơi người khác cụ thể, nơi người anh em, bất luận họ là thế nào, một tầm quan trọng cốt yếu. “Ai không yêu thương người anh em mà mình nhìn thấy được, sẽ không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không thấy” (1 Gn 4,20).

        a) “thận trọng”

        Sự “thận trọng” nổi tiếng của thánh Biển Đức minh họa đặc biệt cho mối bận tâm trên đây. Sự thận trọng ấy là nét đặc sắc mà thánh Grêgôriô ca ngợi khi nói về Tu Luật, và thánh Biển Đức nhắc cho viện phụ hay rằng đó là “mẹ các nhân đức” (TL 64, 19; ĐT II,36). Thận trọng hệ ở khả năng phán đoán, phân định, đánh gía mỗi vật tùy theo mục đích của nó, trong tương quan với một Thực Tại khác có tính quyết định. Cụm từ “ne quid nimis” [không gì quá đáng] (TL 64,12) gồm tóm khá đầy đủ những áp dụng thực hành của sự thận trọng. Không kỷ luật nào, không chỉ thị nào, không lý thuyết nào là tuyệt đối cả. Chẳng gì có giá trị nếu không liên hệ tới con người, một con người được đặt trong tương quan với Thiên Chúa. Thận trọng là nhân đức cơ bản trong việc quản trị. Cha Vogué mô tả như là “Chúa Quan Phòng hoạt động trong đan viện bằng lý trí yêu thương của viện phụ” . Cụ thể là sự thận trọng làm quân bình mọi sự để khích lệ người khỏe và không gây nản lòng người yếu (x.TL 64,19), nghĩa là làm sao để cứu được mọi người (x.TL 41,5). Tất nhiên không phải là để dung dưỡng nết xấu nhưng để chiến đấu với nết xấu cách hữu hiệu hơn, triệt để hơn, và để diệt trừ nó chắc chắn hơn bằng sự khôn ngoan và tình yêu. 

        Nơi thánh Biển Đức chẳng có gì là quá mạnh, không có gì gây ồn ào hay khích động. Dự kiến của ngài, cách ngài quản trị, cách các đan sĩ sống tất cả đểu giản dị. Ngài chẳng hề “gây chấn động”. Nói được là trong nếp sống ngài vạch ra có một trật tự hoàn hảo, không phải thứ trật tự chết chóc hay cằn cỗi nhưng đó là sự hài hòa do mọi sự đều ở đúng vị trí của mình. Phẩm chất này không có được từ những sắp đặt bên ngoài khéo léo và chính xác, nhưng có được là nhờ căn cội con người được định hướng đúng về mục tiêu đích thực, đó là Thiên Chúa. Mọi sự, ngay chính Tu Luật, những luật lệ phải giữ, các thói quen, của cải vật chất và việc dùng của đều phục vụ cho định hướng đó để cổ võ ơn gọi sâu xa của từng người.  

        b) “Tình yêu nồng nhiệt nhất”

        Cần trưng dẫn nơi đây chương sau cùng của Tu Luật, tức là chương đứng trước lời kết, trong đó, một cách hoàn toàn cá nhân, thánh Biển Đức bày tỏ lòng yêu mến, sự quí chuộng và ngay cả việc chọn lựa của ngài đối với đời sống cộng tu. Đó là loại “nhiệt thành”, chúng ta có thể gọi là loại hứng khởi, loại “lửa” hay ham thích sâu xa làm sinh động cuộc đời đan sĩ. Ngài nói đó là nhiệt huyết dẫn đưa tới Thiên Chúa, và không hệ tại điều gì khác nhưng ở trong “tình yêu nồng nhiệt nhất” đối với tha nhân, để hết sức chịu đựng và chấp nhận nhau. “Ferventissimo amore, id est ut honore se invicem praeveniant” [bằng tình yêu nồng nhiệt nhất, họ để ý tôn trọng lẫn nhau] (TL 72,3). Tôn trọng lẫn nhau, quan tâm đến nhau rốt cuộc là trắc nghiệm sau cùng về tính xác thực của đời sống đan tu, cũng như tính xác thực của đời sống kitô giáo. Tôn trọng lẫn nhau đặc biệt bao gồm việc nâng đỡ những người anh em yếu đau tật nguyền – không những về thể lý, mà cả về luân lý – ngay đến vâng phục nhau nữa. Một quan niệm như thế dẫn đi rất xa. Nó giúp ta tránh được quan niệm về một cộng đoàn tu trì thuần túy, lý tưởng, phải được loại bỏ tất cả những gì có thể hạ nó xuống thấp, một cộng đoàn mà sự hiệp nhất chỉ có được nhờ quyền bính tuyệt đối của con người. Nguồn mạch đích thực của hiệp nhất không phải là sự hoàn thiện của các đan sĩ cũng không phải quyền bính có tính đoàn sủng của viện phụ hay sự suy phục luồn cúi của anh em, nhưng là “tình yêu huynh đệ trong trắng” mà thánh Biển Đức nói tới sau này. Tình yêu ấy trong trắng vì nó giúp đan sĩ ra khỏi chính mình tới độ không còn tìm lợi ích cho riêng mình nữa nhưng chỉ tìm lợi ích cho người khác. Tình yêu ấy không do sức riêng mà có được, nhưng luôn luôn là hiệu quả trực tiếp của việc “chăm chú”, của “sự kính sợ thắm đượm tình yêu”,  là ý thức nghiêm chỉnh rằng trọn cuộc đời là lời đáp lại tiếng Chúa mà ta nghe được nơi Chúa Kitô. Thánh Biển Đức kết thúc Tu Luật khi nhắc lại rằng không có gì đáng quí chuộng hơn điều đó.

        KẾT LUẬN

        Trong toàn bộ giáo thuyết này, chúng ta thấy có gì mà lại đã chẳng có sẵn trong Phúc Âm, được đề nghị cho mọi kitô hữu, và nhất là không thiết yếu cho mọi cuộc sống tu trì? Phải nhấn mạnh rằng không có gì hết, tuyệt đối không có gì như vậy cả. Chính thánh Biển Đức xác nhận điều đó (x.TL 73). Cảm hứng của ngài không hề đưa ngài xa cách Kinh Thánh và Phúc Âm, nhưng trực tiếp tuôn trào từ những nguồn mạch ấy. Người ta cũng không phát hiện được nơi cảm hứng của ngài dấu ấn của một linh đạo đặc thù. Không có nhấn mạnh nào về cách thức này hay cách thức khác giúp đi tới Thiên Chúa. Không có lựa chọn chuyên nhất, không có phương tiện ưu đãi nào, cũng chẳng có chi riêng biệt, nhưng là một cái nhìn cực kỳ trong sáng và không kém đòi hỏi để đạt mục đích, một sự chăm chú không ngơi vào tiếng nói của Đấng mời gọi, vào Lời của Thiên Chúa, vào Đấng Khác nơi Chúa Kitô và nơi tất cả những người bày tỏ sự hiện diện của ngài trong cuộc sống cụ thể. Chung quanh cái trục này, mọi sự có thể qui tu lại, mang giá trị dấu chỉ, biến đổi nên Tình Yêu.

        Khi đối chiếu những đường nét đó nơi khuôn mặt thánh Biển Đức với những “vấn đề của đời tu trì hiện nay”, chúng ta không thấy được nơi những đường nét đó giải pháp ở cùng tầm mức mà các vấn đề của chúng ta đặt ra. Thực vậy, chính khi phải lựa chọn những giải pháp như thế mà thánh Biển Đức đã lánh đi, lúc mà, trong những cơn khủng hoảng đã ghi dấu mốc cho đời mình, ngài chẳng thà rút lui còn hơn là trực tiếp đương đầu với những tình huống có thể sẽ không chỉ liên can tới Thiên Chúa mà thôi nhưng cũng tới chính bản thân ngài nữa. Ngài không bao giờ nhượng bộ trước cám dỗ muốn gán cho mình một vai trò, muốn tự trao cho mình nột sứ mệnh. Đó là bí quyết làm cho ngài hết sức nổi tiếng. Nếu ngài đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong Giáo Hội, thì ngài cũng chẳng hay biết, chỉ vì ngài đã triệt để qui hướng đời mình về Chúa Kitô và về Thiên Chúa. Trong một thời đại mà người ta nôn nóng tự hỏi về cách thức phải có để giữ được vị trí của mình trong Giáo Hội và thế giới, có lẽ thái độ trên đây của thánh Biển Đức là một chỉ dẫn cần am hiểu và một khích lệ cần đón nhận.

        Thánh Grêgôriô đã nhận biết giá trị mẫu mực của cuộc đời thánh Biển Đức qua cách thức ngài đã biết dùng để liên kết việc chiêm niệm với ảnh hưởng tông đồ. Đó là sự chọn lựa triệt để của thánh Biển Đức, đã giúp cho cái nhìn của ngài về thế giới và về những người khác có được một phẩm tính riêng biệt. Cái nhìn ấy đã trở nên hoàn toàn “đón nhận”, hoàn toàn “cởi mở” hay “lắng nghe”. Cái nhìn ấy càng hướng về một điểm duy nhất, tầm bao quát của nó càng mở rộng.

        Để bảo đảm cho cuộc sống đi thẳng hướng, thánh Biển Đức kêu gọi tới lương tâm là thực thể đặt con người trong sự thật về mình trước nhan Thiên Chúa, nhờ đức khiêm nhường. Từ đó sẽ có được tương quan đích thực với người khác mà không ích kỷ, không ý muốn quyền lực, một tương quan được tạo nên bởi sự tôn trọng, lòng khoan dung, sự ân cần lo lắng cho những người yếu đuối, tóm lại là tương quan yêu thương.

        Sự nhịp nhàng trong cuộc sống chẳng có được bằng cách nào khác. Không có tình yêu đích thực nếu không qui chiếu về Thiên Chúa, không vận dụng lương tâm và tự do. Trong lộ trình thiêng liêng thánh Biển Đức đề nghị, toàn bộ con người đều được huy động. Không có gì được áp đặt cho con người cách giả tạo từ bên ngoài. Hoàn toàn tập trung vào Chúa, con người sẵn sàng với tất cả và vì tất cả. Nhưng với óc thực tiễn, thánh Biển Đức nhìn thấy trong khung cảnh đời sống chung và những đòi hỏi của nó điều kiện cần thiết để việc tìm Chúa bằng đức ái đạt tới đích. Tìm kiếm một mình Thiên Chúa, đi theo Chúa Kitô cách cụ thể khi từ bỏ mình trong cuộc sống huynh đệ: đó là chân trời rộng lớn của ơn gọi kitô giáo. Chẳng có cách thức lý tưởng nào cũng chẳng có phương pháp nào giúp ta thực hiện ơn gọi này. Chính thánh Biển Đức cũng không đưa ra cách thức hay phương pháp nào, nhưng ngài có tài tập trung bộ luật của ngài vào những chân lý vĩnh cửu. Về điểm này, ngài là một bậc thầy đối với đời sống tu trì của chúng ta ngày nay. Một giáo thuyết cơ bản như giáo thuyết của ngài là thích hợp cho mọi tâm hồn, và có liên hệ tới mọi hình thức sống của chúng ta, vì nó nói với chúng ta tận trong nơi sâu thẳm nhất, cao quí nhất của bản thân chúng ta. Mỗi người, dù ở trong cuộc sống nào, cũng đều có thể được giáo thuyết ấy khích lệ, có thể sống theo giáo thuyết ấy. Thánh Biển Đức làm cho những người gặp gỡ ngài trở nên gần gũi với nhau. Cái nhìn thông suốt về điều cốt yếu cùng với sự am hiểu sâu rộng của ngài về chân lý con người làm cho các tâm hồn thấy dễ chịu và phấn khởi.

Collectanea Cistersiensia  

T 42, 1980, 4