TU LUẬT CHA THÁNH BIỂN ĐỨC VÀ CHÚ GIẢI – TỪNG NGÀY

CHÚ GIẢI TU LUẬT THÁNH BIỂN ĐỨC

THEO TỪNG NGÀY

DOM GUILLAUME JEDRZEJCZAK

Viện phụ đan viện Mont-Des-Cats

LỜI TỰA

Ngay khi đọc những trang đầu cuốn “Trên đường tự do” ta đã có cảm tưởng đang cầm trong tay một tác phẩm thiêng liêng rất phong phú.

Trong cuốn sách này, viện phụ Guillaume cống hiến chúng ta một tuyển tập những lời chú giải Tu luật thánh Biển Đức ngài nói với cộng đoàn mỗi ngày. Ngài muốn giúp mọi người khám phá Tu luật thánh Biển Đức và cũng cho thấy Tu luật này tác động ra sao trên cuộc sống của cộng đoàn đan tu, khi hé mở cho ta linh đạo biển đức và xitô qua những phân tích của ngài. Vì thế, khi chú giải, ngài xử dụng giọng văn nói để dễ chuyển đạt tới độc giả tính năng động và tiềm lực sẵn có nơi người chú giải. Đàng khác, những lời chú giải này rất thường mang dấu ấn cuộc sống và cam kết cá nhân của tác giả, vì đôi khi trạng thái tâm linh của nhà chú giải bộc lộ rất rõ nét.

Bởi thế, trong cuốn sách này tác giả nói bằng kinh nghiệm sống và bằng con tim của mình. Viện phụ Guillaume coi độc giả như người tâm sự, như một thành viên của cộng đoàn, vì ngài cho chúng ta được đọc những lời chú giải mà các đan sĩ nghe mỗi ngày.

Ở thời chúng ta, giáo dân không còn mấy coi trọng lợi ích của Tu luật thánh Biển Đức, một bộ luật viết cho các đan sĩ vào thể kỷ thứ năm. Không hề chỉ là một loạt những điều phải tuân giữ, Luật này là một “con đường tự do” tổ chức chặt chẽ những sinh hoạt thuộc lãnh vực vật chất để đan sĩ có thể tập trung vào Điều Cốt Yếu và sống một cuộc đời phong phú hơn, vì đã trút bỏ được những cái hời hợt bên ngoài. Luật này cũng là một bài học thánh cho xã hội chúng ta ngày nay, một xã hội sống theo nhịp tiêu thụ cách mù quáng và quá khích. Nhưng qua những suy tư của mình, viện phụ Guillaume thúc đẩy chúng ta vượt qua quan niệm quá tầm thường về Tu luật thánh Biển Đức để ý thức tầm quan trọng mà Tu luật này có thể có trong cuộc đời giáo dân của chúng ta. Một số đề tài giữ vai trò hòa điệu cho toàn thể Tu luật: thinh lặng, lắng nghe, nói năng, kính trọng. Chẳng cần phải là đan sĩ mới cảm nhận được sứ điệp Tu luật muốn truyền đạt cho ta và mới thể hiện trong cuộc sống hằng ngày giáo huấn Tu luật đề nghị với ta. Về vị trí quan trọng của việc đọc và suy niệm lời Chúa, về cầu nguyện của đan sĩ cũng vậy; mọi kitô hữu đều phải xử dụng những sinh hoạt này để giúp mình gặp được Đấng Khác, một điều thật là khó khăn khi cuộc sống của ta đã quá bề bộn. Sau hết, ngoài những khó khăn không thể tránh trong cuộc đời, mỗi đan sĩ đôi khi phải chiến đấu cam go để trung thành với Chúa, với ơn gọi, với cộng đoàn. Ngoài thế gian cũng vậy: người ta rất thường bị cám dỗ thất trung với người phối ngẫu, với bạn hữu, với gia đình vì những lý do đôi khi vớ vẩn. Tu luật đòi chúng ta phải suy nghĩ: điều có thể được đối với 20, 30, 40 (hay hơn nữa) đan sĩ, khi họ chẳng chọn nhau, thì không thể cho là không vượt qua được giữa một đôi vợ chồng, khi mà hai người đã chọn nhau vì yêu thương nhau! Nếu nghĩ cuộc sống trong đan viện lúc nào cũng phẳng lặng như mặt hồ thu thì thật là ảo tưởng.

Đàng sau những lời chú giải ta khám phá ra cộng đoàn, điều đó giải tỏa được nhiều thành kiến. Qua những trang sách này ta cùng sống với cộng đoàn, chia sẻ với cộng đoàn những niềm vui, những nhọc nhằn, những hy vọng và những nghi nan. Và đó là cú sốc đầu tiên: đan viện không phải là tiền sảnh của thiên đàng! Các đan sĩ là những con người: chắc chắn là như vậy! Đó là một thực tế mà viện phụ Guillaume thường chia sẻ với chúng ta: trong đan viện không phải mọi sự đều là hoa hồng cả… Điều ấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cộng đoàn đan viện giống như một xã hội nhỏ: các thành viên phải học cho biết chấp nhận những khác biệt của nhau, trong khi vẫn tôn trọng nề nếp chung và giữ một số “qui luật” để mưu ích cho mỗi người.

Như vậy, cuốn sách này cho người giáo dân chúng ta thấy được bản chất của đời sống đan tu: sống xa thế gian để hiện diện giữa thế gian và giữa những bận rộn của thế gian, bằng việc cầu nguyện và chiêm ngưỡng. Phần chúng ta, những giáo dân, chúng ta cần học cho biết thưởng thức sự khôn ngoan của đời sống đan tu tích chứa trong những trang sách này để giúp cho ý nghĩa cuộc sống chúng ta được nên mới mẻ hơn. Tuyển tập những bài chú giải này sẽ giúp chúng ta, dù bất cứ ở đâu hay làm gì, chia sẻ mầu nhiệm ơn gọi đan tu và khám phá ra rằng Tu luật thánh Biển Đức là một con đường dài dẫn ta tới cung lòng Thiên Chúa, và, nhờ tính thức thời đặc biệt của nó, cũng dẫn tới trái tim mỗi con người.

Anne-Catherine Delbarre

———————————————————————-

THÁNH BIỂN ĐỨC VÀ TU LUẬT CỦA NGÀI

Một số tư liệu hiếm hoi chúng ta có được về cuộc đời thánh Biển Đức đến từ cuốn Đối Thoại của thánh Grêgôriô Cả (540-604). Vào năm 593, thánh Grêgôriô đã viết về cuộc đời và sự nghiệp các vị thánh người Ý ở thời đại của ngài. Trong số những vị đó, thánh Biển Đức được nói đến với nhiều chi tiết nhất, và thường dựa theo những chứng tá trực tiếp về các công việc và hành vi của thánh nhân.

Thánh Biển Đức sinh khoảng năm 480 tại Nursia, trong một miền đồi núi ở phía bắc Roma chừng vài trăm cây số. Đến tuổi thanh niên, ngài được gửi tới Roma để hoàn tất việc học hành. Khi bắt đầu hấp thụ nền văn hóa của thời đại, ngài lại bỏ kinh thành Rôma để đi đến một ngôi làng nhỏ có tên là Effide (ngày nay là Affile), mong tìm một lối sống khác. Ngài sống ở đó một thời gian giữa “những con người đạo đức”, rồi lại ra đi sống tại Subiaco, một nơi thanh vắng hơn và không xa Effide bao nhiêu. Thánh Biển Đức chọn làm đan sĩ theo cách thức của thời đại và hiến thân sống cho một mình Thiên Chúa. Có một đan sĩ tên là Romain thỉnh thoảng đến thăm và thường xuyên cung cấp lương thực cho ngài. Ngoài ra, còn có những người chăn súc vật quanh vùng đó hay lui tới nghe ngài giảng dậy cho biết những điều cơ bản về đời sống kitô giáo. Ngài sống không bạn hữu và ngay cả không tham dự vào sinh hoạt phụng vụ của Giáo Hội. Bằng đời sống ẩn dật, thánh Biển Đức chuẩn bị để phục vụ các anh em của ngài.

Sau ba năm, các đan sĩ thuộc đan viện Vicovaro, gần Subiaco, xin thánh nhân về làm viện phụ. Thánh Biển Đức từ chối ngay, vì nghĩ rằng vốn sống khắc khổ và ẩn dật nên ngài không được chuẩn bị để phụ trách một cộng đoàn. Nhưng các đan sĩ ấy cứ nài nỉ mãi nên sau cùng ngài đã chấp nhận, tuy nhiên ngài chẳng làm bề trên của họ được bao lâu. Vì thánh Biển Đức rất nghiêm túc trong khi các đan sĩ ở Vicovaro lại sống đời đan tu cách rất tự do dễ dãi. Bởi thế họ tiếc đã xin ngài làm viện phụ, và, theo thánh Grêgôriô, họ tính chuyện loại trừ ngài bằng thuốc độc. Sau sự cố này, thánh Biển Đức rời bỏ cộng đoàn ấy và trở lại nơi ẩn dật. Ngay từ lúc đó, danh tiếng nhà ẩn sĩ lan rộng và có nhiều môn đệ tới chung sống với ngài. Thế là thánh Biển Đức trở nên vị thầy và người hướng dẫn họ.

Chúng ta không biết giai đoạn này trong cuộc đời thánh Biển Đức kéo dài bao lâu. Ơn gọi mỗi ngày một đông tới độ thánh Grêgôriô nói thánh Biển Đức đã thiết lập trong các miền phụ cận Subiaco mười hai đan viện, mỗi đan viện mười hai đan sĩ. Khi đó thánh Biển Đức quyết định cùng với các môn đệ trẻ nhất lên định cư trên núi Cassino, cách Roma một trăm cây số về hướng đông bắc, có lẽ vào năm 529. Như thánh Grêgôriô kể, thánh Biển Đức ra đi vì sự ghen tương của một linh mục ở giáo xứ gần bên, nhưng có thể là vì ngài muốn cùng với một nhóm nhỏ khởi sự sống đời đan tu theo một hình thức mới.

Trên núi Cassino, trước hết thánh Biển Đức xây một nhà nguyện dâng kính thánh Martinô thành Tours (316-397, vị sáng lập các đan viện Ligugé vào năm 361, và các đan viện Marmoutier vào năm 371) và một nhà nguyện khác dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả. Sau đó, ngài xây các ngôi nhà cho cộng đoàn, như nhà ngủ, nhà cơm, thư viện, các cơ xưởng, nhà khách và những gì cần thiết để anh em không phải đi ra ngoài đan viện.

Vào cuối đời, khi làm viện phụ ở Cassino, thánh Biển Đức mới viết Tu luật. Ngài qua đời năm 547, nhưng tác phẩm của ngài vẫn còn sống mãi tới ngày nay. Năm 580, đan viện Cassino bị quân Lombard cướp phá và thiêu hủy. Các đan sĩ sống sót được Đức giáo hoàng Pelagio 2 đón nhận về Roma và cho phép xây một đan viện gần đền thờ Thánh Gioan Latêranô. Lịch sử đan viện Cassinô không kết thúc với tai họa đó, và mặc dầu những thăng trầm, những đổi thay của lịch sử, hiện nay các đan sĩ vẫn đang sống trên núi Cassino theo Tu luật thánh Biển Đức.

Gia nhập Kitô giáo năm 574 và xây dựng một đan viện trong lãnh thổ của gia đình, có lẽ thánh Grêgôriô đã tổ chức cuộc sống đan viện theo Tu luật thánh Biển Đức. Khi được bầu làm Giáo hoàng vào năm 590, ngài khuyến khích các đan viện dùng Tu luật này hơn là những tu luật khác đang được sử dụng.

Khi hoàng đế Louis le Pieux (778-840) muốn cải tổ đời sống đan tu trong đế quốc của ông, thì theo lời khuyên và sự trợ giúp của thánh Benoit d’Anian (750-821) ông đã yêu cầu tất cả các đan viện sống theo Tu luật thánh Biển Đức. Tại các công nghị ở Aix-la-Chapelle năm 816 và 817, Tu luật thánh Biển Đức trở thành tu luật duy nhất cho các đan sĩ Tây Phương.

Khi nói về Tu luật thánh Biển Đức, thánh Grêgôriô xác nhận rằng Tu luật này “trổi vượt về tinh thần biện phân và ngôn ngữ trong sáng” hơn những tu luật đan tu khác (Đối Thoại, q. IV, ch. 36). Cho dầu thánh Biển Đức có qui chiếu các văn bản đã có trước, thì bản tu luật ngài để lại cho chúng ta vẫn mang dấu ấn kinh nghiệm phong phú về nhân bản và thiêng liêng của ngài. Đã sống trong nơi thanh vắng, nên ngài biết rõ cuộc sống trong đan viện và luật lệ truyền thống của đời đan tu. Chính ngài đã tổ chức và quản trị những đan viện nhỏ bên bờ hồ và thiết lập một đan viện lớn hơn trên núi Cassinô. Ngoài ra, ngài còn biết đến những tác phẩm đan tu như: Các Cách ngôn, các Tu luật thánh Pacômêô và thánh Basiliô, các tác phẩm của Gioan Cassianô, của thánh Augustinô mà ngài rất quen thuộc. Đó là chỉ nhắc tới vài ba tác giả về đời đan tu được thánh Biển Đức trưng dẫn hay qui chiếu trong bản Tu luật của ngài.

Tiếp theo sau đó, các nhà cải cách đan tu thường có ý muốn “trở lại sát nguyên văn Tu luật thánh Biển Đức”. Đặc biệt là trong trường hợp thành lập Xitô vào năm 1098. Khi ấy các đan sĩ xitô tiên khởi rời bỏ một đan viện sầm uất để chung sống với nhau, xa cách thế gian hơn, và tự lực cánh sinh bằng chính đôi tay của mình.

Ngày nay, có nhiều cộng đoàn đan tu trên khắp thế giới sống theo Tu luật thánh Biển Đức, dù là theo truyền thống biển đức, xitô hay trapit (trappiste). Ngoài ra, các đan viện đã trở nên nơi tiếp đón ngày càng đông những giáo dân muốn tìm đến để được bồi dưỡng về mặt đạo đức và tinh thần. Một số người trong họ khám phá ra Tu luật thánh Biển Đức như một cuốn sách chỉ nam hữu ích cho việc tìm Chúa giữa thế gian. Sống dưới cái nhìn của Chúa, trong sự khiêm tốn và vâng phục, là điều cũng có thể thực hiện được “trong thế gian”. Những bài chú giải được trình bày trước hết cho cộng đoàn Mont Des Cats rồi được tuyển hợp trong tác phẩm này có thể giúp các giáo dân hiện thực hóa Tu luật thánh Biển Đức trong cuộc sống của họ.

Fr. Bernard-Marie van Caloen

                           ———————————————————————-

DẪN NHẬP

Đến giờ hội. Tiếng chuông mời gọi anh em tạm ngưng   mọi công việc đang làm. Mau mắn tụ họp trong nhà hội, sau khi cúi đầu chào hai người bên cạnh mình, anh em ngồi vào chỗ và chờ viện phụ. Khi ngài tới, mọi người đứng lên, và sau lời nguyện ước: “Xin Chúa ban cho chúng ta một đêm bình an và được kết thúc may lành”, người đọc sách đọc một đoạn Tu luật. Sau khi người đọc sách ngồi vào chỗ, viện phụ sẽ chú giải vắn tắt đoạn Tu luật vừa đọc, trước khi nói những gì khác.

Lời mở đầu và bảy mươi ba chương được phân phối để mỗi năm chúng ta đọc ba lần trọn bản Tu luật. Được đọc liên tục từng ngày, Tu luật sẽ dần dần thấm nhiễm vào cuộc sống và cách nghĩ của cộng đoàn đan tu. Nhưng đây không phải là thấm nhiễm thụ động. Truyền thống đọc và giải thích Tu luật mỗi ngày đòi phải có một điều kiện tiên quyết. Mỗi đoạn Tu luật, dù dễ hiểu hay xem ra đã hoàn toàn rõ nghĩa, vẫn còn điều gì đó để nói với chúng ta ngày hôm nay, sau mười lăm thế kỷ.

Tuy nhiên, thực ra thì một số đoạn ta dễ lĩnh hội, trái lại, một số khác mới đọc qua ta thấy khó hiểu. Khi ấy ta  dễ bị cám dỗ bỏ qua, coi như đã lỗi thời và vô giá trị. Đúng thật là một cám dỗ. Vai trò của người chú giải là làm sao cho thấy được “kho tàng chôn giấu trong ruộng”, “viên ngọc quí” mà ta phải cố gắng mới có thể khám phá ra.

Vấn đề ở đây không phải là giải thích Tu luật theo kiểu các nhà chuyên môn, tuy công trình của họ rất quí giá và rất cần thiết cho chúng ta, nhưng là nhìn lại cuộc sống cộng đoàn, những biến cố xẩy ra và đôi khi khiến cộng đoàn chao đảo, dưới ánh sáng của Tu luật. Như thế, đây là một tác động ngược. Không phải đan sĩ giải thích Tu luật nữa, nhưng một cách nào đó Tu luật giải thích cuộc sống của cộng đoàn và của từng anh em.

 Đối tượng để chú giải không phải là Tu luật với mọi chi tiết nữa, nhưng là cuộc sống của đan sĩ, của cộng đoàn, một cuộc sống chấp nhận bị chất vấn, bị khuấy động và được sửa chữa bởi cái nhìn khác lạ nhưng lại rất quen thuộc. Thánh Biển Đức thay đổi cái nhìn của ta về cuộc đời, ngài mở cho ta những tầm nhìn mới mẻ, ngài đưa ta vào “một con đường tự do”!

Điều ấy cho ta hiểu tại sao, qua nhiều năm trời, cứ ba lần một năm, viện phụ có thể chú giải cùng một đoạn Tu luật và dầu vậy đoạn Tu luật này vẫn luôn luôn mới mẻ. Như vậy, lời chú giải là hoa trái trổ sinh từ sự gặp gỡ giữa Tu luật (với sức nặng minh triết và Truyền thống của nó), thực tại cụ thể nhưng luôn luôn mới, và tâm trạng của người chú giải.

Được báo trước như vậy, độc giả biết có thể gặp những gì trong cuốn sách này, và điều gì không nên tìm ở đây kẻo sẽ phải thất vọng. Nếu cuốn sách này có một mong ước thì đó là mong ước giúp những ai, cũng như tôi, đã có lần vấp phải một số đoạn khó trong Tu luật thánh Biển Đức, để họ còn dám đi xa hơn nữa. Sau thời gian cố gắng ban đầu ta sẽ tự nhiên thấy ham thích tìm hiểu sâu hơn tư tưởng của thánh nhân.

LỜI MỞ ĐẦU

Ngày 1.1 – 2.5 – 1.9

1 Con ơi, hãy lắng nghe lời thầy dạy, ghé tai lòng con mà thuận tình đón nhận lời cha hiền khuyên nhủ và thực hiện cho bằng được, 2 để nhờ gắng công vâng phục, con trở về với đấng con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân. 3 Vậy cha nói với con đây, dù con là ai, mà đã đoạn tuyệt với ý riêng, mang lấy khí giới rất mạnh mẽ và rạng ngời của đức vâng phục, để chiến đấu cho Chúa Kitô, Vua chân thật.

4 Trước tiên, khi khởi công làm việc lành nào, con hãy tha thiết cầu khẩn, xin ngài giúp con thành tựu, 5 ngõ hầu đấng đã đoái nhận ta vào số con cái, sẽ không bao giờ phải buồn phiền vì những hành vi bất chính của ta. 6 Bởi thế, trong mọi lúc ta phải dùng các ơn lành Chúa ban mà vâng phục ngài, để một ngày kia ngài không như người cha nổi giận truất quyền thừa tự của con cái, 7 hay như ông chủ đáng sợ nổi lôi đình vì những hành vi bất chính của ta, rồi đẩy ta như đầy tớ xấu xa vào chốn cực hình muốn kiếp, vì đã không muốn theo ngài vào chốn vinh quang.

Chú giải:

A – Ngày 1.1

Thánh Biển Đức mở đầu tu luật của ngài bằng một lời thật giản dị: “Hãy lắng nghe”. Trong tiếng la tinh “obscultare” (theo ngôn ngữ bình dân) hay “auscultare” có nghĩa là lắng nghe với ngụ ý đem ra thực hành điều đã nghe. Như vậy, đối với thánh Biển Đức lắng nghe có tương quan rất mật thiết với vâng phục (obscultare [lắng nghe] và oboedientia [vâng phục] có cùng một gốc). Ở câu 2, vâng phục được định nghĩa như một việc phải làm để trở về với Thiên Chúa: “Nhờ gắng công vâng phục con trở về với đấng con đã xa lìa vì ươn lười bất tuân”.

Nhưng vâng phục như thế nào? Phải chăng là vâng phục cách gần như máy móc theo kiểu nhà binh? Ở câu 6 thánh Biển Đức xác định phải vâng phục như thế nào khi ngài nói: “Trong mọi lúc, ta phải dùng những ơn lành Chúa ban mà vâng phục ngài”.

Khi nói như thế, thánh Biển Đức mời gọi ta vượt qua thái độ vụ luật, vì để vâng lời cách chủ động, ta phải vận dụng mọi ơn lành Chúa đã ban. Nhưng ta lại thường không biết tới những ơn lành ấy đã được dấu ẩn nơi ta. Thực vậy, đó không phải là những đức tính nhân bản mà ta thường gọi là ơn lành. Tuy rằng những đức tính ấy rất hữu ích cho ta, nhưng thánh Biển Đức còn muốn đi xa hơn nữa, vì dầu sao chúng cũng rất hạn hẹp.

Vậy đâu là những ơn lành Chúa đã ban cho ta? Làm sao nhận biết được? Thánh Biển Đức đề nghị một cách khai thác những ơn lành ấy khi cảnh báo ta về điều cản trở ta nhận ra chúng, đó là ý riêng (c.3). Vì, nói cho cùng, kẻ thù lớn nhất của ta chính là bản thân ta, với một hình ảnh sai lạc ta tự tạo ra về mình.

Đối với thánh Biển Đức, vâng phục là con đường trở về với Thiên Chúa. Vì trước hết đó là con đường dẫn tới tự do nội tâm đích thực, bắt đầu bằng việc giải thoát ta khỏi chính mình, khỏi những sợ hãi, những hoài nghi, và cả những ảo tưởng cũng như sự phóng đại quá đáng về mình. Đó là con đường ta phải đi vào theo chân Chúa Kitô, và chỉ bằng đức tin mà thôi. Phải tin để thấy, chứ không thấy để rồi mới tin. Vì trong khi cậy trông luôn luôn dựa vào kinh nghiệm, thì như thánh Phaolô nói, đức tin hy vọng điều chưa bao giờ thấy. Và chính đức tin mới cứu được ta.

B – Ngày 2.5

Lắng nghe, đón nhận, thì hành. Bằng ba động từ này, thánh Biển Đức tóm gọn cuộc sống của người muốn xin gia nhập đan viện. Đó là ba động từ gồm tóm thái độ nội tâm giúp đan sĩ đi vào mối tương quan phụ tử với Thiên Chúa. Trong câu 1, thánh Biển Đức nói với đan sĩ như với con của một người cha đích thực.

Trong những câu tiếp theo, thánh Biển Đức sẽ khai triển thêm. Lắng nghe, đón nhận, thi hành, đó chính là công việc của đức vâng phục và sự từ bỏ ý riêng. Về tương quan cha con, thánh Biển Đức coi đó như chìa khóa mở cửa vào Vương quốc, vào hưởng gia nghiệp. Tuy nhiên, đối với con người của thế kỷ 21 nói như thế thật là khó nghe. Như đã nhắc đến mới đây, ngày nay người ta có cảm tưởng không tốt về người cha, ông làm người ta sợ. Vậy Cha ở đây là ai?

Người Cha, là “cha đích thực”, mà thánh Biển Đức nói tới ở câu 1 thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho ta. Trong Phúc Âm, ta thấy được rất nhiều dịp Chúa Giêsu tiếp xúc với Chúa Cha, như khi ngài chịu phép rửa, khi ngài cầu nguyện, khi giáp mặt với kẻ thù, khi tiếp xúc với môn đệ, trong cuộc tử nạn, phục sinh và lên trời. Có lẽ thật là thú vị khi nêu ra những trường hợp trên đây để qua đó ta hiểu được ý nghĩa của lời Chúa Giêsu vui sướng cất lên: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha…”, hay của tiếng kêu ngài đau đớn thốt ra trên thập giá: “Tại sao Cha bỏ con?”

Ta có thể tóm gọn tất cả những trường hợp trên đây vào hai ý. Trước hết, đó là Chúa Cha luôn luôn có mặt: Chúa Giêsu thực hiện mọi điều Cha muốn, Cha luôn luôn ở với ngài, ngài chỉ bận tâm tới công việc của Cha, mọi sự khác đều không quan hệ gì đối với ngài. Nhưng Cha cũng là đấng rất mực xa vắng, đấng đã để Chúa Giêsu một mình đương đầu với số mệnh, với đau khổ và sự chết! Mầu nhiệm Chúa Cha dấu ẩn trong chính cái dáng vẻ mâu thuẫn đó. Tư cách làm cha đích thực tiềm tàng nơi hình ảnh này: lời nói và sự thinh lặng, tiếng mời gọi và sự đợi chờ. Chỉ một tư cách làm cha thật sự mới có thể làm nảy sinh một ơn gọi chân chính.

C – Ngày 1.9

Ơn gọi đan tu bắt nguồn từ một cảm nghiệm và một ước mong. Cảm thấy mình bị xa cách, và ước mong trở nên gần gũi. Nhưng ta xa cách cái gì, xa cách ai? Và ta được mời gọi đến gần cái gì, đến gần ai?

Ở câu 2, thánh Biển Đức bảo rằng ta đã xa lìa Thiên Chúa. Hẳn là đúng như vậy. Nhưng ta chỉ nhận ra điều đó nhờ một cảm nghiệm khác, đó là cảm thấy mình đã trở nên xa lạ với chính mình. Vì ta nhận ra mình xa cách Chúa khi cảm thấy bất an, không ổn với chính mình. Chính khi bất an mà ta cảm thấy xa cách Chúa. Chính khi bất ổn với mình, xa cách mình, mà ta thấy Chúa không hiện diện với ta.

Và cảm nghiệm này giúp ta lên đường trở về để hoán cải. Chính khi đi tìm mình thì cuối cùng ta lại gặp được dấu vết của Chúa, và khi lên đường tìm Chúa, rốt cuộc ta sẽ gặp lại chính mình. Phải chăng điều đó có nghĩa là kinh nghiệm về Thiên Chúa chỉ là một hình thức trọn vẹn hơn của kinh nghiệm về mình?

Thiết tưởng để hiểu được điều đó thì cần phải nhớ lại những cuộc gặp gỡ đặc biệt với Thiên Chúa được kể rất nhiều trong Thánh Kinh. Chính trong những cuộc gặp gỡ này mà các tổ phụ và các tiên tri nhận được danh xưng và sứ mệnh của mình. Chính khi ở trước nhan Thiên Chúa mà các ngài trở nên chính mình. Chính khi gặp được Đấng Khác, đấng hoàn toàn Khác, mà các ngài sinh ra cho chính mình. Chính khi tìm lại được con đường dẫn tới Thiên Chúa mà các ngài khám phá ra con đường dẫn tới bản thân.

Ngày 2.1 – 3.5 – 2.9

 8 Vậy ta hãy chỗi dậy theo lời Thánh Kinh giục bảo: “Đã đến giờ ta phải tỉnh giấc”. 9 Và một khi đã mở mắt nhìn ánh quang thần hoá, ta hãy lắng nghe tiếng Chúa ngày ngày văng vẳng bên tai: 10 “Hôm nay, nếu các con nghe tiếng Chúa, các con đừng cứng lòng”. 11 Lại rằng: “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe điều Thần Khí nói với các Giáo Hội”.  12 Và ngài nói gì? “Hỡi các con hãy đến mà nghe, Ta sẽ dạy cho biết kính sợ Chúa”. 13 “Hãy chạy khi còn ánh sáng sự sống, kẻo bóng tối sự chết chộp lấy các con”.

Chú giải:

A – Ngày 2.1

 Hãy lắng nghe! Trong đoạn rất ngắn này của Lời mở đầu tu luật, từ latinh “audire” (lắng nghe) được lặp đi lặp lại năm lần. Thánh Biển Đức mô tả nơi đây cả một khoa sư phạm về việc lắng nghe. Tìm hiểu sơ qua từng câu một hẳn cũng là điều hữu ích.

Ở câu 9: “Ta hãy lắng nghe tiếng Chúa ngày ngày văng vẳng bên tai”. Lắng nghe đòi phải chăm chú, không phải chỉ chăm chú tùy lúc hay trong trường hợp đặc biệt, nhưng mọi giây mọi phút. Vì Chúa nói mỗi ngày, chỉ có ta mới không còn biết nghe nữa thôi.

Thánh Biển Đức nói ở câu 10: “Hôm nay, nếu các con nghe tiếng Chúa, các con đừng cứng lòng”. Trở ngại lớn cho việc lắng nghe là sự cứng lòng. Thiên Chúa nói, nhưng chỉ con tim tan vỡ, con tim bị nghiền nát, khiêm tốn mà theo Thánh Kinh là con tim trái ngược với con tim chai cứng, kiêu căng, ngang bướng, cứng đầu cứng cổ, chỉ con tim ấy mới có thể nghe được. Thói quen phạm tội sẽ làm suy yếu khả năng yêu mến nơi ta.

 Ở câu 11: “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe điều Thần Khí nói với các Giáo Hội”. Đó là lắng nghe tiếng thì thầm của Thần Khí, tiếng gió nhẹ thổi tới nơi chẳng có ai nghe. Nhưng trong Giáo Hội ta có thể nghe thấy được. Khi nhắc lại đoạn sách Khải huyền này, thánh Biển Đức nhấn mạnh rằng ta lắng nghe trong cộng đoàn hiệp thông huynh đệ, nơi có hai hay ba người họp nhau nhân Danh Chúa.

Sau cùng, câu 12: “Hỡi các con, hãy đến mà nghe, Ta sẽ dậy cho biết kính sợ Chúa”. Như vậy, lắng nghe sinh ra kính sợ, một diễn ngữ của Cựu Ước nói lên sự kính trọng, tình yêu con thảo. Kính sợ khác hẳn với sợ hãi. Kính sợ là ý thức mình ở trước một đấng cao cả hơn mình.

Tóm lại, trong bốn câu, thánh Biển Đức cho ta những qui luật căn bản của việc lắng nghe đích thực: chăm chú, khiêm nhường, hiệp thông và ý thức về Đấng Khác.

B – Ngày 3.5

Hãy lắng nghe, hãy đứng dậy. Lời thánh Biển Đức mời gọi thật là rõ ràng. Nghe cách lơ đễnh, như thể chẳng liên quan gì tới mình, thì không được. Với thánh Biển Đức, lắng nghe thực sự chính là hành động, là dấn thân: “Hãy đứng dậy” (c.8). “hãy mở mắt ra” (c.9), “chớ cứng lòng” (c.10), “hãy đến” (c.12), “hãy chạy” (c.13). Lắng nghe thực sự khác hẳn với nghe cách thụ động ươn lười. Trái lại, lắng nghe đích thực là thực hiện lời đã nghe.

Tuy nhiên, trong Thánh Kinh có đầy dẫy những người nghe mà không làm. Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm khắc với những kinh sư và những người pharisêu chỉ biết nói mà chẳng chịu làm. Những kẻ giả hình đó hài lòng vì những lời khoa trương tự đắc và tưởng rằng như thế là mình đã nên công chính rồi. “Chẳng những họ không vào (nước Thiên Chúa), mà lại còn ngăn cản người khác vào”, khi làm cho người ta lạc xa đường thiện. Nhưng ta lại chẳng giống họ sao?

Tôi thường tự hỏi làm sao ta lại có thể vừa mới nói những điều tốt lành là chỉ sau ít phút đã làm ngược hẳn lại, một cách thật vô tư. Điều gì đã khiến ta không còn nhận ra được sự mâu thuẫn, cái dối trá đó nữa? Thiết tưởng thánh Biển Đức trả lời cho thắc mắc này ở câu sau cùng của đoạn tu luật hôm nay, tức câu 13: “Hãy chạy khi còn ánh sáng sự sống, kẻo bóng tối sự chết chụp lấy các con”.

Cuộc hoán cải nào cũng khởi đầu từ việc cảm thấy đó là điều cấp bách phải làm. Thiết tưởng việc cảm thấy cấp bách như vậy gắn liền với một kinh nghiệm cốt yếu của con người, đó là kinh nghiệm về việc khám ra rằng một ngày kia ta sẽ chết. Chính qua kinh nghiệm phũ phàng về cái chết mà sự sống bỗng nhiên bừng lên mãnh liệt, như dòng nhựa sống trào dâng. Chính nhờ cái tương phản quyết liệt đó mà ta thoát khỏi tình trạng thờ ơ, nỗi buồn tẻ vô vị, và nhận ra lời thánh Biển Đức kêu mời: “Hãy đứng lên”, “Đừng cứng lòng”, “Hãy chạy mau”!

C – Ngày 2.9

Trong đoạn tu luật này, ta gặp lại một lược đồ giống như lược đồ thánh Biển Đức đã phác họa ở câu 1: –ta hãy lắng tai nghe (ở c.9) (lắng nghe); -các ngươi chớ cứng lòng (ở c.10) (nghe); –Ta dậy cho biết kính sợ Chúa (ở c.12) (đón nhận); –hãy chạy khi còn ánh sáng sự sống (ở c.13) (làm).

Thánh Biển Đức diễn tả những điều đó bằng các trưng dẫn Thánh Kinh cho thấy phải thực hiện ngay hôm nay và một cách gấp rút.

Trước hết là ngày hôm nay: “Đã đến giờ ta phải tỉnh giấc”; “hãy nghe tiếng Chúa ngày ngày thúc giục ta: Hôm nay các con đừng cứng lòng”. Với thánh Biển Đức, không có chuyện đợi chờ lúc thuận tiện, nhưng hôm nay Chúa đang đợi chờ ta. Nếu ta cứ sống mà nuối tiếc quá khứ hay mơ tưởng một tương lai tốt đẹp, tức là ta không sống trong sự thật, không sống trong ánh sáng của Chúa.

Vì “ngày hôm nay” có tính cấp bách đang thúc đẩy ta. “Thiên Chúa thúc giục ta mỗi ngày”. Vậy thì “Hãy chạy mau bao lâu còn ánh sáng sự sống, kẻo bóng tối sự chết bao phủ các con”. Việc hoán cải không thể chậm trễ, vì khi giam giữ ta trong tội, việc từ chối lắng nghe sẽ khiến ta thành khô chồi cằn cỗi. Trước thái độ ấy, Lời Chúa sẽ chẳng sinh hoa kết trái được.

Thánh Biển Đức cũng thiết lập tu luật của ngài trên hai động lực này: ngày hôm nay, lúc mà Thiên Chúa đến thăm ta, và tính cấp bách. Khi thèm nhớ nồi thịt bên Ai Cập và ước mong những ngày mai tươi sáng, người ta không còn khả năng đón nhận điều Thiên Chúa ban ở đây và lúc này nữa.

Ngày 3.1 – 4.5 – 3.9

 14 Đang khi tìm giữa đám đông người thợ mà ngài muốn gọi, Chúa tiếp: 15 “Ai là người muốn sống và ước ao thấy những ngày hạnh phúc?” 16 Khi nghe lời ấy, nếu con thưa: “Dạ, con đây”.  Chúa sẽ phán: 17 “Nếu con muốn hưởng sự sống đích thực và vĩnh cứu, thì lưỡi con chớ nói điều xấu xa và môi con chớ thốt lời gian dối; con hãy làm lành lánh dữ, hãy tìm kiếm và theo đuổi sự bình an”. 18 Khi các con đã thực thi những điều ấy, thì mắt Ta hằng theo dõi các con, tai Ta hằng lắng nghe các con khấn nguyện, và ngay khi các con chưa kịp kêu cầu thì Ta đã bảo: “Có Cha đây”. 19 Anh em rất thân mến, còn gì ngọt ngào hơn lời Chúa mời gọi ta như thế? 20 Này đây, với tất cả lòng ưu ái, Chúa đã chỉ cho ta con đường dẫn tới sự sống.

Chú giải:

A – Ngày 3.1

Nếu ta lắng nghe, như lời đầu tiên của tu luật mời gọi, một ngày nào đó ta sẽ nghe Chúa nói với ta qua Kinh Thánh. Đối với thánh Biển Đức, đó là cốt lõi của ơn gọi đan tu đích thực: cảm nghiệm được rằng Lời Chúa là lời dành cho tôi.

Lời mà Thiên Chúa nói với ai đến xin vào đan viện mang hai sắc thái khác nhau. Ở câu 15, lời ấy là tiếng mời gọi đến hạnh phúc: “Ai là người muốn sống và ước ao thấy những ngày hạnh phúc?” Ở câu 17, lời ấy trở thành lời mời gọi hoán cải: “Lưỡi con chớ nói điều xấu xa và môi con chớ thốt lời gian dối: con hãy làm lành lánh dữ, hãy tìm kiếm và theo đuổi sự bình an”.

Trước hết đó là lời mời gọi đến hạnh phúc. Để trở thành đan sĩ, cần phải yêu thích sự sống. Nếu ta từ bỏ bao nhiêu chuyện thì không phải vì ta không muốn sống. Trái lại là khác. Chính lòng yêu thích sự sống thúc đẩy ta ước ao điều gì còn quí hơn, đẹp hơn, thật hơn, tốt hơn. Đó là chính Thiên Chúa.

Đúng vậy, muốn tìm ra con đường dẫn tới Thiên Chúa, cần phải dứt bỏ nhiều chuyện: sự dữ, dối trá, tất cả những gì chỉ làm ta hài lòng trong chốc lát. Đối với thánh Biển Đức, từ bỏ chỉ là hiệu quả của lòng yêu thích sự sống và là một điều kiện để có thể đạt tới sự sống thật. Có những con đường xem ra hấp dẫn hơn, dễ dàng hơn, rộng rãi hơn. Ta có thể nghĩ như thế khi nhìn vào cuộc sống của người khác. Nhưng các anh em có nhiệm vụ tiếp đón khách đều biết rằng đó chỉ là ảo tưởng. Chẳng có con đường nào là dễ dãi cho người đi tìm hạnh phúc đích thực.

B – Ngày 4.5

“Nếu con đáp: Thưa, con” (c.16). Có lẽ ta có thể dịch lời đáp ở câu 16 bằng kiểu nói của Thánh Kinh “Này con đây”, như thánh Biển Đức dùng ở câu 18 để nói về lời đáp của Chúa. Như vậy, ta có thể hiểu ý nghĩa đời sống đan tu giữa hai lời đáp ấy, “này con đây” và “này Cha đây”. Lời thứ nhất là lời đan sĩ đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Lời thứ hai được cho là lời đáp của Chúa. Nhưng giữa hai lời đáp ấy điều gì sẽ xẩy ra?

Để diễn tả ơn gọi đan tu giữa hai lời đáp ấy, thánh Biển Đức sử dụng hai kiểu diễn đạt, một kiểu tiêu cực: hãy giữ gìn miệng lưỡi, hãy xa tránh; và một kiểu tích cực: hãy làm, hãy tìm kiếm, hãy theo đuổi. Đối với thánh nhân, điều tiếp theo lời đáp “này con đây” và dẫn tới lời đáp “này Cha đây” đó là cuộc sống được ghi đậm nét bởi “hãy làm” và “đừng làm”. Như vậy, thánh Biển Đức cho rằng đời sống đan tu trước hết là một sinh hoạt tu đức, một việc để làm. Nghe một tiếng gọi và đáp lại để đi vào đan viện thì chưa đủ. Nhưng còn cần phải thay đổi cuộc sống.

Viện phụ Rancé đã tóm gọn những điều thánh Biển Đức nói ở đoạn luật này trong ba yếu tố căn bản của con đường thiêng liêng, đó là tìm kiếm, thay đổi, ca ngợi. Tìm kiếm bằng cách đáp lại ơn gọi. Thay đổi bằng cách thực hiện điều Chúa yêu cầu. Ca ngợi Chúa, đấng đang tới gặp ta.

C – Ngày 3.9

“Trong khi tìm kiếm…”. Con người tìm Thiên Chúa xem ra là điều bình thường, và còn là điều thuộc bản chất con người nữa, ở bất cứ nơi đâu cũng vậy. Nhưng Thiên Chúa đi tìm con người mới là điều khiến ta ngạc nhiên, làm ta bối rối! “Trong khi tìm kiếm người thợ”. Dầu sao thì đó cũng chính là điều thánh Biển Đức nói tới trong đoạn thứ ba này của lời mở đầu.

Thiên Chúa tìm một con người, nhưng không phải bất cứ con người nào. Ngài tìm một người thợ, như thánh Biển Đức nói. Vì khi Thiên Chúa tìm ta là để ta làm việc, để biến ta thành những “người thợ của ân sủng”, những “nghệ nhân của Thần Khí”. Và tác phẩm ngài bảo ta đẽo gọt, chạm trổ, đánh bóng là chính bản thân ta.

Thiên Chúa đòi ta dành cả cuộc sống cho tác phẩm này. Nhưng vật liệu để làm nên tác phẩm lại chẳng do ta chọn lựa. Thường thì quá khứ và hiện tại của ta cũng vượt ngoài tầm tay ta. Tuy nhiên, Thiên Chúa biết rằng từ một khúc gỗ cong queo nhất, từ một khối đá xấu xí nhất có thể xuất hiện một kiệt tác. Trong khi mà từ phiến cẩm thạch quí giá có thể lại chẳng làm nên được gì, nếu nghệ nhân không để hết tâm lực vào đó. Bất cứ vật liệu như thế nào, bất cứ ta nghèo nàn ra sao, nghệ nhân sẽ làm được cho một nắm đất sét thành một tác phẩm xinh đẹp, miễn là ta ưng thuận, và điều đó tùy thuộc ở ta.

Ngày 4.1 – 5.5 – 4.9

 2l Vậy, thắt lưng bằng đức tin và sự thực thi các việc lành, rồi dưới sự hướng dẫn của Phúc Âm, ta hãy tiến bước theo đường của Chúa, để đáng được xem thấy đấng đã gọi ta vào vương quốc của ngài. 22 Nếu ta muốn cư ngụ trong vương quốc của ngài mà không chạy mau trên đường hành thiện, thì không tài nào tới được. 23 Cùng với vị ngôn sứ ta hãy thưa Chúa: “Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong cung điện Chúa và ai sẽ được nghỉ ngơi trên núi thánh Ngài?”

 24 Thưa anh em, thỉnh vấn xong, ta hãy lắng nghe Chúa trả lời và bày tỏ cho ta con đường dẫn tới cung điện: 25 “Đó là kẻ bước vào mà lòng trong sạch và biết thực thi sự công chính, 26 đó là kẻ nói sự thật phát xuất tự lòng mình và không ăn gian nói dối,27 không làm hại và cũng không nhục mạ người lân cận”. 28 Đó là kẻ biết đẩy lui tà thần cùng mọi âm mưu quyến rũ của nó ra khỏi lòng mình mà tiêu diệt đi, và chộp ngay các tà ý vừa nảy sinh mà đập tan vào Chúa Kitô. 29 Đó là kẻ kính sợ Thiên Chúa, không kiêu căng vì đã giữ luật cách trọn hảo, trái lại chân nhận rằng những gì tốt lành nơi mình đều không do tự sức mình nhưng do ơn Chúa. 30 Họ chúc tụng Chúa, đấng hoạt động nơi mình, và cùng tuyên xưng với vị ngôn sứ: “Không phải cho chúng con, lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng cho danh Chúa được vinh hiển”.

Chú giải:

A – Ngày 4.1

Một trong những khó khăn thường gặp nơi cuộc sống, một trong những vỡ mộng lớn đó là khoảng cách ta nhận thấy giữa điều mình nói và việc mình làm, giữa những lời hay ý đẹp và cách thức ta ăn ở. Làm như thể chỉ cần nói những điều hay ho, có những ý tưởng đẹp đẽ hoặc những lý thuyết lớn lao là đủ để chuyển hướng được mọi sự, thay đổi được ý nghĩa cuộc đời.

Vì thế, ở đầu đoạn văn này, trong câu 21, thánh Biển Đức đề nghị ba điều thiết yếu cho cả đời ta và giúp ta nhận biết thực trạng của mình: “Vậy, thắt đai lưng bằng đức tin và sự thực thi các việc lành, rồi nhờ Phúc Âm hướng dẫn, ta hãy tiến bước trên đường của Chúa”. Ta phân biệt ba yếu tố: đức tin, sự thực thi, Phúc Âm.

Điều thú vị là thánh Biển Đức không lấy lại hình ảnh người lính trong thư Ephêsô (6,14-17) được trang bị để chiến đấu, nhưng dùng hình ảnh người tôi tớ trong Phúc Âm chuẩn bị lên đường. Để tiến lên đường của Chúa, ta cần có đức tin, có hành động và có Phúc Âm như người hướng dẫn.

Đó chính xác là ba cột trụ của đời sống đan tu: -Đức tin đưa ta vào dòng dõi tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob, vào dòng dõi những người đã tin mặc dầu không còn chút hy vọng nào. -Hành động đặt ta trong hàng ngũ các tiên tri, những vị không ngừng nhắc nhở dân phải sống bằng đức tin. -Phúc Âm dẫn ta theo chân Chúa Kitô, trên những nẻo đường chưa khi nào biết tới và đầy bất ngờ, chẳng hề giống với những nẻo đường ta vẫn quen đi.

B – Ngày 5.5

         Đức tin, làm các việc lành, Phúc Âm, đó là ba cột trụ của cuộc đời đan tu được sống một cách đích thực, trong công chính và sự thật, theo như lời Thánh Vịnh mà thánh Biển Đức trưng dẫn. Tuy nhiên, càng tiến tới trong đời đan tu thì, qua từng giai đoạn, qua những lúc gặp khủng hoảng, đan sĩ càng nhận thấy rằng đời mình thực tế là một cuộc mạo hiểm, một cuộc chiến vì đức tin và trong đức tin.

Ta thường có khuynh hướng chỉ nhìn thực tại đời đan tu như là những vấn đề về tương quan giữa các cá nhân, về cơ cấu tổ chức, về sự quân bình tâm lý, theo quan điểm thuần túy nhân loại. Dĩ nhiên không thể quên những điều ấy, nhưng cũng không nên quan trọng hóa chúng. Vì ta phải tập cho quen nhìn những gì xẩy tới, về phương diện cá nhân hay cộng đoàn, bằng con mắt đức tin.

Làm cách nào để nhận ra ngón tay Thiên Chúa trong những gì xẩy đến cho ta? Làm cách nào để thấy được cuộc sống cá nhân và cộng đoàn như một lịch sử thánh? Làm cách nào để dần dần tìm ra được sợi chỉ đỏ âm thầm dệt nên những gì xẩy đến cho ta?

Trong đoạn tu luật này, thánh Biển Đức cho ta một bí quyết khi nhắc lại lời thánh Phaolô: “Tôi được thế nào là nhờ ơn Chúa”. Như vậy thì dù thành công hay thất bại, được an ủi hay bối rối băn khoăn, hiện nay tôi thế nào cũng là một hồng ân, một ơn sủng của Chúa, cho bản thân tôi và cho anh em tôi. Cũng thế, cộng đoàn tôi, mỗi người anh em tôi là một ơn sủng, một hồng ân cho tôi. Đó là điều ta phải nhìn ra bằng con mắt đức tin. Và phải cần đến cả một đời, cùng với ơn trợ giúp của Chúa, để nhìn ra được.

C – Ngày 4.9

Trong đoạn tu luật này, ta thấy có mối liên hệ mật thiết giữa đức tin và cách sống. Đoạn này mở đầu như sau: “Vậy, thắt lưng bằng đức tin và sự thực thi các việc lành”. Những cụm từ “Đức tin” và “các việc lành” nhắc ta nhớ lại Thư của thánh Giacôbê, trong đó ngài bảo: “Nếu ai nói ‘tôi có đức tin’ mà lại không hành động, thì có ích gì?” (2,14), và xa hơn một chút ngài nói: “Bạn hãy cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin có một Thiên Chúa ư? Bạn làm đúng. Ma quỉ cũng tin như thế, và chúng run sợ”.

Ta cũng có thể đọc tiếp đoạn tu luật này trong bối cảnh của thư Giacôbê, vì thánh Biển Đức nhấn mạnh tới một loại hành động đặc biệt là nói năng: “Đó là kẻ nói sự thật phát xuất tự lòng mình và không ăn gian nói dối, không làm hại và cũng không nhục mạ người lân cận” (c. 26-27). Điều này tương hợp với chương 3 thư Giacôbê, đoạn nói về cái lưỡi (3,2-12).

Sự tương hợp này còn đi xa hơn nữa, khi thánh Biển Đức tiếp tục nhấn mạnh rằng thực ra điều xấu không đến từ cái lưỡi nhưng từ cõi lòng: “họ biết đẩy lui ma quỉ ra khỏi lòng mình” (c.28). Thư Giacôbê cũng nói tới chuyện ấy ở 3,14; 4,8 và 11.

Như vậy, trong đoạn luật này, dù không trưng dẫn thư Giacôbê, thánh Biển Đức cũng theo cùng một lược đồ và có cùng một kết luận như thánh Giacôbê, khi đối nghịch sự khôn ngoan thế gian, đầy tính kèn cựa, đắng cay với sự khôn ngoan từ trời làm phát sinh sự bình an: Gc 3,15-18.

Ngày 5.1 – 6.5 – 5.9

 3l Hay như thánh Phaolô Tông Đồ đã không coi thành quả việc rao giảng là do sức mình, khi ngài nói: “Tôi được thế nào là nhờ ơn Chúa”. 32 Ngài còn thêm: “Ai tự hào hãy tự hào trong Chúa”. 33 Bởi đó, Chúa đã nói trong Phúc Âm: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành thì ví được như người khôn xây nhà trên đá; 34 dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá”.

35 Nói thế rồi, hằng ngày Chúa chờ ta lấy việc làm mà đáp lại giáo huấn thánh thiện của Người. 36 Vì thế nếu Chúa còn gia hạn cho ta sống thêm ngày nào, là để ta sửa chữa lỗi lầm, 37 như thánh Tông Đồ nói: “Bạn không biết rằng lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa thúc giục bạn hối cải đó sao?”. 38 Vì Chúa nhân từ phán: “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó hoán cải và được sống”.

Chú giải:

A – Ngày 5.1

Thiên Chúa không chờ đợi nơi ta những lời hứa suông, những mỹ từ, nhưng ngài mong ta hành động. Thánh Biển Đức nhấn mạnh điều đó và còn coi hành động như tiêu chuẩn của một cuộc hoán cải chân chính, nghĩa là cuộc hoán cải đưa tới sự sống. Như vậy, chọn sự sống tức là chọn thực hiện điều được yêu cầu, bằng cách làm như người khôn trong Phúc Âm xây nhà trên tảng đá.

Với thánh Biển Đức, xây nhà trên đá tức là thực hành điều Phúc Âm yêu cầu và được tu luật áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Đúng như lời Chúa Giêsu dậy: “Ai nghe những lời Ta vừa nói mà đem ra thực hành thì giống như người khôn xây nhà mình trên tảng đá” (Mt 7,24).

Đem ra thực hành là xây nhà trên tảng đá. Chỉ nghe suông hay chỉ ước muốn mơ hồ là xây trên cát. Linh đạo thánh Biển Đức là linh đạo thực hành, linh đạo của hành động. Có lẽ ta hơi ngạc nhiên vì đã thường quen phân biệt lãnh vực thiêng liêng với những gì thuộc về hành động, về những việc cụ thể phải làm.

Với thánh Biển Đức, đan sĩ là con người hành động, và nhờ hành động mà được biến đổi. Chính khi làm điều thiện, đôi lúc khó khăn vất vả, mà đan sĩ trở nên tốt hơn. Chính khi phục vụ anh em mình cách cụ thể, mà dần dần đan sĩ biết yêu thương họ. Chính khi hát thần tụng, mà đan sĩ trở thành con người đáng khen. Xem ra khó chấp nhận cách nghĩ đề cao hành động như thế. Tuy nhiên, cách nghĩ đó lại rất hợp với tinh thần Phúc Âm.

B – Ngày 6.5

Trong việc hoán cải đan tu, có khát vọng được sống. Người ta thường mô tả đời đan tu là từ bỏ, là chết cho thế gian, mà quên rằng trước hết đó là một cuộc sống, hay chính xác hơn, như thánh Biển Đức nói ở câu 37, đó là một cuộc thay đổi đời sống.

Vì một trong những trực cảm của người xin gia nhập đan viện là họ thấy thiếu một cái gì đó, họ thấy mình chưa có được cuộc sống đích thực. Với thời gian, cảm thức về sự thiếu thốn ấy và khát vọng từ đó nảy sinh rất có thể sẽ suy giảm và tàn lụi đi nếu ta không nuôi dưỡng chúng suốt cả đời mình.

Nếu điều đó xẩy ra, ta sẽ có nguy cơ bị bão táp và sóng nước cuốn trôi, vì ta chỉ xây nhà trên cát. Với thánh Biển Đức, xây nhà trên cát có nghĩa là “nghe lời Phúc Âm, nhưng không thực hiện”, như ngài nói ở câu 33.

Dĩ nhiên, nếu chăm chú sống theo Phúc Âm thì điều đó không có nghĩa ta sẽ tránh khỏi những thử thách, những khó khăn. Chúa Giêsu không hứa cho ta một cuộc sống dễ dãi. Nhưng khi đó ta sẽ có được kinh nghiệm về sự mỏng dòn của ta, và cũng đồng thời về sức mạnh của Thiên Chúa, đấng trợ lực ta. Vì chính ngài là tảng đá cho ta nương tựa, chính ngài là sức mạnh của ta, chính ngài là nguồn động lực cho ta. Như thánh Biển Đức nói ở câu 38, ta sẽ nhận ra được điều Chúa phán dậy: “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó hoán cải và được sống”.

C – Ngày 5.9

Với thánh Biển Đức, đời đan tu là gì? Đoạn tu luật này cho ta một lời giải đáp hết sức rõ ràng: đó là sống Phúc Âm, thực hành lời Phúc Âm dậy. Thật là đơn giản, đơn giản đến nỗi nhiều khi ta không nghĩ tới nếu có ai hỏi. Đời đan tu là một cách sống Phúc Âm. Không tốt hơn những cách sống khác, nhưng cũng không kém. Vậy làm sao biết được ta có sống Phúc Âm hay không?

Thánh Biển Đức giới thiệu với ta một tiêu chuẩn rất đơn giản để nhận định về điều này. Đó không phải là căn cứ vào công nghiệp hay nhân đức của ta, hoặc coi xem những người sống chung quanh ta có trở lại hằng loạt hay không. Nhưng tiêu chuẩn ấy chính là tiêu chuẩn của Phúc Âm.

Đó là xây nhà trên nền đá: Mt 7,24-25. Nếu cuộc sống đan tu của ta được xây dựng trên Phúc Âm, thì mưa sa bão táp không thể nào lay chuyển, ta vẫn luôn đứng vững. Ngược lại thì dù có mạnh mẽ và kiên quyết tới đâu ta vẫn không thể nào đứng vững được. Và nếu điều ấy đúng cho từng cá nhân thì lại càng đúng cho cộng đoàn.

Không phải cái đẹp của phụng vụ, con số các đan sĩ, tầm vóc các tòa nhà, việc tổ chức cộng đoàn, hay chất lượng đời sống của anh em này anh em kia, hoặc khả năng thích ứng với thời đại sẽ giúp cho cộng đoàn ta tiếp tục phát triển. Không, tất cả những cái đó đều không đủ. Vì điều xây dựng nên một cộng đoàn chính là Phúc Âm. Phúc Âm được suy niệm, được nghiền ngẫm, được sống trong mọi chi tiết nhỏ mọn của cuộc đời. Bởi lẽ, vì Phúc Âm mà ta có mặt nơi đây, và chính khi sống Phúc Âm mà ta sống ơn gọi truyền giáo của mọi người đã được thánh tẩy. Ta được mời gọi công bố Phúc Âm bằng cuộc sống như thế.

Ngày 6.1 – 7.5 – 6.9

 39 Thưa anh em, khi  hỏi Chúa về kẻ được ở trong cung điện Người, ta đã nghe huấn lệnh Người đặt ra.  Và ta sẽ chỉ được thừa hưởng nước trời nếu ta chu toàn bổn phận. 40 Thế nên, ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để chiến đấu mà tuân phục các giới răn. 4l Còn điều gì tính tự nhiên lấy làm khó, ta hãy cầu xin Chúa ban ơn giúp sức. 42 Nếu ta muốn tránh khỏi hình khổ hoả ngục và đạt tới sự sống đời đời, 43 thì bao lâu còn thời gian sống trong thân xác và còn lợi dụng được ánh sáng đời này để chu toàn những điều vừa nghe, 44 ta phải chạy mau và thi hành ngay những gì mưu ích đời đời cho ta.

 Chú giải:

A – Ngày 6.1

“Ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thân xác để chiến đấu mà tuân phục các giới răn”. Với thánh Biển Đức, đan sĩ thực hiện điều được yêu cầu vẫn chưa đủ, mà tâm hồn cũng phải thuận theo nữa. Và không đương nhiên có được như vậy. Quả thực, ta có thể cố gắng vượt qua cái mình không ưa không thích để thực hiện điều được yêu cầu, nhưng làm sao mà yêu thích cái mình không thể yêu thích.

Thánh Biển Đức đề nghị hai phương thế giúp cảm hóa tâm hồn: -Cầu nguyện, ở câu 41: “Điều gì tính tự nhiên lấy làm khó, ta hãy cầu xin Chúa ban ơn giúp sức”. -Sợ hãi, ở câu 42: “Nếu ta muốn tránh hình khổ hỏa ngục và đạt tới sự sống đời đời”.

Phương thế thứ nhất là chính đáng và hiển nhiên rồi, trái lại phương thế thứ hai khiến ta bị dội. Tuy nhiên, sợ hãi có giá trị giáo dục của nó. Phải chăng vì sợ bị cháy mà đứa trẻ không dám thò tay vào lửa, phải chăng vì sợ rớt mà người trèo núi phải cẩn thận trong khi gắng sức trèo lên tới đỉnh? Tất nhiên, như thánh Gioan nói, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi. Nhưng ai dám cho rằng mình đã yêu cách hoàn hảo?

Nếu có thứ sợ hãi làm ta bị tê liệt, thì cũng có thứ sợ hãi khiến ta lánh xa tội lỗi, vì ý thức sự yếu đuối và những giới hạn của mình. Quả thực, sợ hãi là một trong những hoa trái của lòng khiêm tốn, của người biết mình thiếu thốn mọi sự. Vâng phục vì sợ có thể là dấu hiệu cho thấy mức trưởng thành cao của người ý thức được những giới hạn, những yếu đuối của mình.

 B – Ngày 7.5

“Kẻ được ở trong nhà Người”. Tiếng “nhà” ở đây được dùng để dịch tiếng “tabernaculum” có nghĩa là cái lều, và hiểu rộng ra là nhà, nơi cư trú. Nhưng tiếng “tabernaculum” có một âm hưởng đặc biệt đối với ta, vì nó cũng gợi nhớ đến nhà tạm đặt trong nhà thờ và để cất giữ Thánh Thể. Như vậy tiếng “tabernaculum” gợi lên hai ý tưởng.

Ý tưởng thứ nhất được thánh Biển Đức quảng diễn ở đây là ý tưởng về những ngôi lều trại mà dân Israel cư ngụ trong thời gian Xuất hành. Những ngôi lều của dân Israel, như ta thấy nói đến trong lễ lều được dân Do Thái cử hành hằng năm, đó là ý tưởng về cuộc lữ hành, về sự kiện ta là những khách lạ, những kẻ hành trình trên mặt đất này. Đan viện là một khu cắm trại của những con người đang đi đường tiến về trời cao.

Ý tưởng thứ hai, cũng được nối kết với ngôi lều trong sách Xuất hành, đó là lều Hội ngộ, lều gặp mặt; đó là ý tưởng về Đền thờ, nơi Thiên Chúa đến gặp con người. Như vậy, đan viện cũng là ngôi lều nơi Thiên Chúa cho ông Môsê được trông thấy mặt ngài, nhờ vậy mà mặt ông trở nên chói sáng.

Hai đặc tính đó, tức là nơi qua đường và nơi gặp gỡ mặt đối mặt, cho ta hiểu rõ hơn điều thánh Biển Đức sẽ khai triển qua suốt cả cuốn tu luật của ngài. Đan viện không phải là nơi yên ổn an vị, trái lại đó là nơi tạm trú trong cuộc Xuất hành dẫn ta đến nơi cư ngụ vĩnh viễn trên trời cao. Nhưng đó cũng là nơi Thiên Chúa đến gặp ta, là một không gian thánh nơi Thiên Chúa nói với tâm hồn biết lắng nghe trong thinh lặng và tôn kính.

C – Ngày 6.9

Với thánh Biển Đức, đời sống đan tu được tóm gọn trong câu 39 của lời mở đầu tu luật: “Khi hỏi Chúa về kẻ được ở trong nhà Người”. Đây là ở nhà của Chúa, ở với Chúa. Trong truyền thống đan tu, động từ ở có nhiều nghĩa. Trước hết là ở một nơi nào, gắn kết với nơi ấy, ở lại nơi ấy, giống như cây mọc bên giòng nước. Để sinh hoa kết quả, cây phải đâm rễ sâu vào đất. Nghĩa thứ nhất này gợi cho ta ý tưởng về sự bền đỗ.

Nghĩa thứ hai, như thấy trong sách Đối Thoại của thánh Grêgôriô khi kể về cuộc đời thánh Biển Đức, đó là “ở với chính mình”. Đây không còn là ở một nơi bên ngoài nữa, nhưng là trở về với mình, với lòng mình, như dấu chứng của mọi cuộc hoán cải chân thực.

Sau cùng, động từ ở nhắc ta nhớ đến việc ở trong Đền thờ, ở trong tiền đình nhà Chúa, mà ông Simêon và bà Anna là những nhân vật biểu trưng. Trong truyền thống đan tu, điều đó được thể hiện bằng việc ở trước Thánh Thể. Khi ở đấy, bất kể thời gian, ta sẽ tìm lại được mình, và sẽ sinh hoa kết quả cho phần rỗi thế gian.

Ngày 7.1 – 8.5 – 7.9

 45 Chính vì mục đích ấy cha phải thiết lập trường học phụng sự Chúa, 46 trong đó cha hy vọng sẽ không ấn định điều gì khắt khe, nặng nề. 47 Nhưng nếu có theo lẽ phải mà quy định điều gì hơi nghiêm ngặt hầu giúp sửa chữa nết xấu và bảo toàn đức ái 48 thì con chớ vội hoảng sợ mà trốn xa con đường cứu độ, vì vạn sự khởi đầu nan. 49 Nhưng một khi đã tiến bộ trong đời tu và trong đức tin, một khi lòng phấn khởi và nếm được sự ngọt ngào khôn tả của tình yêu, ta sẽ chạy trên đường giới răn Chúa, 50 đến nỗi không bao giờ ta lìa xa giáo huấn Người, trái lại ta kiên trì trong giáo lý của Người nơi đan viện cho đến chết, kiên nhẫn chia sẻ các đau khổ của Chúa Kitô để đáng được dự phần trong nước Người. Amen.

Chú giải:

A – Ngày 7.1

Với thánh Biển Đức, trong đời sống đan tu nếu có điều gì trái tính tự nhiên, thì trước hết là để sửa nết xấu và sau đó giúp ta kiên trì trong tình yêu. Sửa nết xấu là đương nhiên rồi, nhưng làm sao những trái ý lại có thể bảo vệ đức ái, phục vụ tình yêu.

Quả thực, trong một cộng đoàn, đức ái là điều thật mong manh. Một cộng đoàn có thể đổ vỡ bất cứ lúc nào, vì thiếu quan tâm đến người khác, khi ta quên mất rằng mình là thành phần của một thân thể. Nhưng người ta có thể ép ta yêu không? 

Người ta có thể ép ta yêu không? Người ta có thể học cho biết yêu không? Như thế thì tình yêu có còn là tình yêu không? Ta thắc mắc là do quan niệm của ta về tình yêu. Ta cho rằng tình yêu là một tình cảm trào ra từ thẳm cung tâm hồn và ta không thể kiểm soát được. Người ta sa vào tình yêu cũng như thể người ta ngã bệnh. Ta lại chẳng nói tới thứ bệnh yêu đương đó sao?

Trái lại, Phúc Âm mời gọi ta đi xa hơn tình cảm, vì tình cảm sẽ mau qua. Tình yêu cốt ở điều này là chính Thiên Chúa đã yêu thương ta trước. Như vậy, khám phá ra tình yêu trong ngôi trường dậy yêu thương là cộng đoàn, chính là khám phá ra rằng tình yêu luôn luôn đi trước ta, tình yêu có nguồn gốc ở bên ngoài ta. Và phải lâu dài đào bới nơi mình, bên kia mọi tình cảm, để khám phá được nguồn mạch sâu xa của tình yêu. Hẳn là vì thế mà thánh Biển Đức thiết lập một ngôi trường, bởi lẽ ta phải tái học hỏi dưới cái nhìn của Chúa tất cả mọi chiều kích nơi thiên chức làm người của ta.

B – Ngày 8.5

Với Thánh Biển Đức, đan viện là một ngôi trường, một nơi người ta học hỏi. Và mọi thứ học tập đều đòi phải có một mức độ cưỡng bức nào đó. Thánh Biển Đức nói tới điều ấy ở câu 47. Nhưng sự cưỡng bức ấy chỉ chính đáng vì hai lý do: “sửa chữa thói hư và bảo toàn đức ái”.

Qua suốt cả cuốn tu luật, thánh Biển Đức thường hay nói đến việc sửa chữa thói hư tật xấu. Đó là một trong những bổn phận thánh nhân giao cho viện phụ. Nhưng ở đây tôi muốn nói riêng về việc bảo toàn đức ái.

Ta dễ hiểu một sự cưỡng bức nào đó có thể giúp sửa chữa nết xấu, nhưng lại khó mà thấy làm sao việc cưỡng bức có thể giúp bảo toàn đức ái. Hai từ cưỡng bức và đức ái xem ra khá mâu thuẫn với nhau. Đúng là theo nguyên tắc thì đức ái không bị cưỡng bức, nhưng cũng có những trường hợp cần thiết phải nhắc nhở hay cảnh cáo.

 Trong mọi nhóm người, cũng có nghĩa là trong mọi đan viện, đều có những qui luật ấn định các sinh hoạt chung. Không biết tới điều đó, ta có thể dễ bị những tác động của nhóm lôi cuốn. Mà nhóm nào cũng có thể có những tác động như loại bỏ, khai trừ, muốn lãnh đạo, là những tác động chẳng giúp ích gì cho đức ái, chẳng làm triển nở tình yêu thương giữa anh em. Thật là dễ dàng khi chế nhạo người yếu đuối hơn ta, khi loại trừ kẻ nghèo khó hơn mình. Ta không ngờ rằng đôi khi mình rơi vào cạm bẫy của những cách đối xử phá hoại như thế. Vì vậy phải cần đến một mức độ cưỡng bức nào đó để ngăn ngừa ta làm thiệt hại anh em mà chẳng hay biết, và như thế là có hại cho chính ta nữa.

C – Ngày 7.9

Đan viện là “trường phụng sự Chúa”, nghĩa là nơi người ta học cho biết phụng sự Chúa. Nhưng học phụng sự như thế nào? Thánh Biển Đức xác định việc học đó trong hai giai đoạn mà ngài tóm lược ở câu 50, là câu kết thúc lời mở đầu.

Như ở một số nơi hiện nay, vào thời thánh Biển Đức trường học chẳng được ưa chuộng là mấy. Vì vậy, trước hết thánh nhân nhắc ta đừng chạy trốn, nếu có gặp khó khăn cực nhọc lúc ban đầu. Học sống đời đan tu như học trong một ngôi trường đòi ta phải chấp nhận mệt nhọc cách nào đó, phải gắng sức.

Sau đó là thời an vui, khi lòng phấn khởi, khi mà những gì trước đây phải cực nhọc thì bây giờ đã trở nên tự nhiên và mang lại niềm vui khôn tả. Việc phụng sự Chúa đã mang sẵn niềm vui.

Khi ấy thánh Biển Đức mời gọi ta tiến lên một bậc. Vì ngôi trường ta đang học không là gì khác hơn là trường Chúa Kitô. Vào đan viện là đi vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Thánh Biển Đức cho ta bí quyết cơ bản để giải thích mọi sự xẩy đến và sẽ xẩy đến cho ta. Như thế, cuộc đời ta trở nên một lịch sử thánh, một cuộc vượt qua tiếp theo cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, một Phúc Âm Sống.

Chương 1

CÁC LOẠI ĐAN SĨ

Ngày 8.1 – 9.5 – 8.9

 l  Đã rõ có bốn loại đan sĩ. 2 Loại thứ nhất là các đan sĩ cộng tu, đó là những người sống trong đan viện, chiến đấu theo một tu luật và dưới quyền viện phụ.

3 Thứ đến là loại đan sĩ biệt tu hay ẩn tu. Họ không phải hạng người sống theo lòng sốt sắng ban đầu, nhưng đã được thử thách lâu dài trong đan viện. 4 Nhờ sự nâng đỡ của nhiều người, họ đã học biết cách chiến đâu với ma quỷ. 5 Họ đã được huấn luyện nghiêm túc trong hàng ngũ anh em, rồi mới xuất thân chiến đấu một mình trong sa mạc. Từ đây họ đã đủ mạnh, không cần đến người khác hỗ trợ nữa, nhờ ơn Chúa giúp, họ tự sức mình vững vàng chiến đấu tay đôi với tính mê xác thịt và những tư tưởng xấu.

Chú giải:

A – Ngày 8.1

Dường như ta chỉ muốn đọc chương thứ nhất này cho có lệ vậy thôi. Có thể với cảm tưởng là nó không còn liên can đến ta nữa. Vì ta xác tín mình là đan sĩ cộng tu và chẳng liên hệ gì tới những loại đan sĩ khác: ẩn tu, tự tu hay du tu. Nhưng ta cũng có thể giải thích chương này theo một hướng khác khi tự hỏi phải chăng xét cho cùng thì cả bốn loại đan sĩ này lại không tồn tại trong cùng một đan viện. Và đi xa hơn nữa, phải chăng một lúc nào đó, ở mức độ riêng của mỗi người, ta lại không sống theo một trong những cách sống đó.

Thực vậy, ta cũng có thể thấy trong bốn loại đan sĩ này những nét đặc biệt giúp nhận ra sự tiến bộ hay trái lại sự sa sút trong cuộc sống của mỗi người.

Theo cái nhìn của thánh Biển Đức, ta thử nêu lên nét đặc trưng của mỗi giai đoạn trên đường thiêng liêng: -Người cộng tu sống trong đan viện, dưới sự hướng dẫn của tu luật và viện phụ. Thánh Biển Đức cho rằng điểm đặc biệt của cách sống này là sự nâng đỡ của số đông (c.4), hàng ngũ anh em sẽ hỗ trợ (c.5) ta trong cuộc chiến. -Còn các ẩn sĩ là những người không cần đến lòng nhiệt thành sốt sắng như tập sinh nữa, các ngài là những người thiện chiến, đã học biết chiến đấu với ma quỉ, nhờ ơn trợ lực của Chúa các ngài chiến đấu một mình mà không cần ai giúp nữa. Như vậy, hai mẫu đan sĩ này là những chiến binh, những người sống một mình hay sống thành nhóm, với ơn Chúa giúp, họ là những tâm hồn hùng mạnh trên đường thiêng liêng. Điều đó phân biệt họ với hai loại đan sĩ khác mà ở đoạn sau ta sẽ nói tới.

B – Ngày 9.5

Thánh Biển Đức nói tới bốn loại đan sĩ, tương ứng với bốn cách sống đời đan tu. Nhưng thực ra ta có thể nghĩ rằng bốn loại đan sĩ đó đều thấy trong bất cứ đan viện nào. Và đi xa hơn, ta còn có thể coi đó như một loại hình đường thiêng liêng mà mỗi đan sĩ trải qua suốt cuộc đời đan tu của mình. Một loại hình mà một đàng liên quan đến hai giai đoạn cơ bản của con đường thiêng liêng, một đàng liên quan đến hai chước cám dỗ mà lúc nào đó sẽ làm cho đan sĩ phải đau khổ.

Những giai đoạn thăng tiến thiêng liêng được biểu trưng bởi loại đan sĩ thứ nhất và thứ hai: -Đan sĩ cộng tu là những người sống trong một đan viện, theo một tu luật và dưới quyền một viện phụ. Họ cần được anh em hỗ trợ, cần được hướng dẫn để có thể lớn lên trong Chúa Kitô và đạt tới mức trưởng thành thiêng liêng. -Ẩn sĩ, những người đã trưởng thành nhờ sự nâng đỡ của cộng đoàn, từ nay có thể một mình chiến đấu trong nơi thanh vắng giữa sa mạc mà không cần đến sự khích lệ của người khác.

Một cách nào đó, hai giai đoạn này cũng diễn ra trong một cộng đoàn như cộng đoàn chúng ta chẳng hạn, và còn là thành phần của hành trình đan tu của cộng đoàn nữa.

Loại đan sĩ thứ ba và thứ tư tượng trưng cho những cám dỗ thường xuyên quấy rầy đan sĩ. -Những người tự tu không chịu sống theo một tu luật và dưới quyền một viện phụ, họ là viện phụ của chính mình. Họ sống ẻo lả theo sở thích riêng, vì tuy sống đời đan tu nhưng họ chỉ giữ những gì họ cho là tốt theo phán đoán riêng của họ. -Những đan sĩ du tu là nô lệ cho ý riêng, luôn luôn nghĩ rằng nơi khác tốt hơn nơi họ đang ở. Không bao giờ chịu ở yên và muốn tìm cái mới lạ, nên họ chỉ nóng lòng dời đi nơi khác.

Những cám dỗ trên đây cũng là những cám dỗ của ta. Vì thế thánh Biển Đức đã thiết định lời khấn bền đỗ như một yếu tố chủ lực trong tu luật của ngài. Vì ngài biết rằng điều người ta tìm lẩn tránh trước hết đó là chính mình. Nỗi sợ phải nhìn thấy thực trạng của mình, sợ phải chấp nhận mình có nguy cơ đẩy ta xa khỏi mình và ngăn cản ta khởi công lên đường sống đời đan tu.

C – Ngày 8.9

Thánh Biển Đức nghĩ rằng đời đan tu là một cuộc chiến mà ta có thể tham gia giữa anh em trong cộng đoàn, hoặc một mình nơi sa mạc. Từ vài thập niên qua, ý tưởng về cuộc chiến ít được nói đến trong các sách về đời sống đan tu. Người ta thích nói về việc tìm Chúa hay tìm tuyệt đối, về cầu nguyện, về đời sống nội tâm, chiêm niệm hay thần bí. Nếu có nói đến cuộc chiến thì thường chỉ có tính cách phụ thuộc thôi.

Thế mà theo kinh nghiệm chung của các đan sĩ sa mạc cũng như các đan sĩ thuộc gia đình biển đức thì cuộc chiến vẫn có đó mỗi ngày. Sự bình an trong cuộc sống đan tu biển đức không hề là thứ bình an theo quan niệm của chủ nghĩa hoan lạc thiêng liêng, chỉ bằng lòng với những niềm vui trước mắt. Trái lại, sự an bình đó là một chiến thắng, chiến thắng từng ngày trong một cuộc sống đầy những cám dỗ, những ước muốn thầm kín, những tư tưởng ám muội. Nhiệm vụ đầu tiên của đan sĩ là dần dần ý thức được sự hiện diện của những kẻ thù ấy ở ngay trung tâm lòng mình.

Gioan Cassianô nói rằng nếu thấy rõ được cuộc chiến phải đương đầu, ta sẽ bỏ trốn hết. Và thánh Gioan Vianê rất đau đớn mà hối tiếc vì đã xin Chúa cho thấy cuộc chiến ngài phải giáp mặt. Cuộc chiến không giảm bớt theo thời gian, nó nhắm thẳng vào một số những yếu đuối, vào những “cái gai” mà mỗi người mang nơi xác thịt mình. Và cuộc chiến cần thiết cho chúng ta, vì nó là cơ hội để ta bám víu lấy Chúa Kitô, người bạn duy nhất, lá chắn duy nhất của ta.

Ngày 9.1 – 10.5 – 9.9

6 Loại thứ ba thật đáng ghét, đó là các đan sĩ tự tu. Họ không được một tu luật nào là bậc thầy kinh nghiệm tôi luyện như vàng được tinh luyện trong lò, nên tính nết vẫn còn ủy mị như chì; 7 qua cách sống, họ chứng tỏ còn mê theo thói đời. Hiển nhiên là họ lấy việc cắt tỏc đi tu mà dối Chúa. 8 Họ sống từng hai, từng ba, hoặc một mình, không có chủ chăn. Họ không thuộc đàn chiên Chúa, nhưng sống một đàn riêng. Lề luật của họ là thỏa mãn các dục vọng! 9 Hễ điều gì họ nghĩ hoặc ưa thích thì họ cho là thánh thiện. Còn điều gì không vừa ý, họ cho là không nên.

10 Còn loại thứ tư gọi là đan sĩ du tu, suốt đời họ lang thang từ miền này sang xứ nọ, trọ mỗi nhà ba bốn hôm, 11 nay đây mai đó, không khi nào chịu ở yên một chỗ. Họ quả là nô lệ ý riêng và ham mê ăn uống. Xét mọi mặt họ còn tệ hơn cả loại đan sĩ tự tu.

12 Về nếp sống tồi tệ của các loại đan sĩ này thà im đi còn hơn là nói đến. 13 Vậy bỏ qua các loại đó, nhờ ơn Chúa giúp ta hãy tổ chức loại đan sĩ cộng tu, là loại rất anh dũng.

Chú giải:

A – Ngày 9.1

Đặc điểm của các đan sĩ tự tu là không có tu luật cũng không có viện phụ, hay đúng hơn tu luật là những ước muốn riêng của họ và viện phụ là chính bản thân họ. Xét cho cùng, đặc điểm của đan sĩ tự tu là chỉ sống theo ý muốn riêng, quan điểm riêng, cách nhìn riêng về thực tại.

Còn đặc điểm của các đan sĩ du tu là không thể ở yên một chỗ nào. Điều đó khiến họ liên tục đi lang thang khắp nơi, vì cứ tưởng rằng nơi họ sắp đến sẽ khá hơn những nơi khác. Người du tu sẽ chẳng bao giờ mãn nguyện, họ cứ mê mải đi tìm bên ngoài thay vì đi sâu vào nội tâm.

Với thánh Biển Đức, hai loại đan sĩ này, hay đúng hơn hai loại đan sĩ thoái hóa này là hai thứ cạm bẫy mà lúc nào đó ta có thể rơi vào một trong hai.

Cái bẫy thứ nhất là tưởng rằng mình biết những điều gì là tốt cho mình, còn hơn cả mọi người, nhất là hơn cả tu luật và các bề trên nữa. Và những điều đó thường mang dáng vẻ là những ước muốn thiêng liêng cao vời. Cái bẫy thứ hai là đi tìm một cộng đoàn hoàn hảo, một viện phụ hoàn hảo v.v. và quên rằng đời sống đan tu trước hết là một cuộc hoán cải bản thân. Cả hai lối ứng xử trên đây đều là cách từ chối nhìn thẳng vào thân phận cùng khốn của mình.

B – Ngày 10.5

Trong chương này thánh Biển Đức cho ta bí quyết để giải thích và hiểu toàn thể tu luật. Thực vậy, tu luật không phải là một bộ luật về cách ăn ở trong đời đan tu, cũng không phải một cuốn sách dậy những điều phải giữ, hay một cuốn giáo khoa về xã giao hay một bộ luật hình sự, nhưng là “ông thầy dậy kinh nghiệm sống”. Đó là tinh hoa của kinh nghiệm thiêng liêng của nhiều thế hệ đan sĩ đã đi tìm Chúa trước ta.

Nhưng không phải vì thế mà tu luật dễ đọc, trái lại là đàng khác. Vì vấn đề kinh nghiệm thiêng liêng là ta chỉ hiểu được kinh nghiệm ấy nếu chính ta đã trải qua. Tuy thế vẫn chưa đủ, vì kinh nghiệm không giới hạn ở những gì đã sống, đã cảm thấy được, kinh nghiệm cũng đòi ta phải có khả năng nhìn lại những gì mình đã sống, và biết suy tư về điều mình đang sống.

Đó là thảm cảnh của những người mà thánh Biển Đức nói đến qua hai loại đan sĩ ngài mô tả trong đoạn tu luật này: đan sĩ tự tu và đan sĩ du tu. Cả hai loại đều tránh né nhìn thẳng vào mình bằng cặp mắt trong sáng. Họ tránh né tất cả những gì có nguy cơ đòi buộc họ nhìn thẳng vào sự thật. Họ tạo cho mình một cuộc sống đan tu vừa với sở thích của họ, để khỏi phải đặt ra cho mình những câu hỏi nghiêm túc và khỏi giáp mặt với những vấn đề của một cuộc sống đan tu đích thực.

Nhưng cái nguy cơ ấy rình rập tất cả chúng ta, ngay cả trong cuộc sống đan tu xem ra được tổ chức chặt chẽ. Ta có thể rơi vào cái bẫy nguy hiểm là cuộc sống nước đôi, trở nên những con người có tâm hồn bị chia sẻ. Chính vì thế, trong một chương khác, thánh Biển Đức yêu cầu năng đọc tu luật để giúp ta năng tự hỏi về tính xác thực của cuộc sống mình, hay đúng hơn nhận ra những gì khiến ta xa rời cuộc sống ấy.

C – Ngày 9.9

Khi tìm hiểu điều thánh Biển Đức nói về các du tu và tự tu, ta có thể phác họa hình ảnh đan sĩ theo tư tưởng của ngài. Có thể tóm lược hình ảnh đó theo ba đặc điểm cốt yếu sau đây: -đan sĩ là con người được nhào nặn nên bởi kinh nghiệm; -đan sĩ là con người của sự thật; -đan sĩ là con người tự do.

Đan sĩ là con người được nhào nặn nên bằng kinh nghiệm, khi sống theo một tu luật và dưới quyền một viện phụ, trong một cộng đoàn ổn định. Như thế, ta có thể thấy rằng những lời hay ý đẹp không đủ để thay đổi một con người. Những ước mong thầm kín, ý riêng chỉ biểu lộ dần khi tiếp xúc với thực tế, đôi lúc gay go, của đời sống cộng đoàn. Đan sĩ từ từ nhận ra mình qua cuộc sống vất vả thường nhật. Nhờ kinh nghiệm mà đan sĩ sinh ra cho chính mình.

Và như thế đan sĩ sẽ trở nên con người của sự thật, của thực tế. Trước thực tế này, cơn cám dỗ trốn chạy, cám dỗ từ chối nhìn thẳng vào thực tế, thật là lớn lao. Bởi lẽ, dù muốn hay không, trong ta vẫn có một cái gì đó chống lại ơn thánh. Mối nguy là cứ tưởng rằng chướng ngại nằm ở chỗ khác, nơi những người khác, và tưởng rằng nên thay đổi để tránh giáp mặt với sự thật.

Vì chính sự thật sẽ làm cho đan sĩ thành con người tự do, không còn là nô lệ ý riêng và thú vui nữa, như thánh Biển Đức nói, nhưng được tự do là chính mình. Chỉ khi kinh nghiệm được cách nóng bỏng và đôi khi đau đớn rằng ta khác với những ước muốn có nơi mình, khác với những cám dỗ tấn công mình, ta mới có thể khám phá ra cách diệu kỳ sự tự do của con cái Thiên Chúa, và mới có thể yêu thương chính mình. Khi được sống trọn vẹn, kinh nghiệm đan tu có thể biến đổi ta thành những con người tự do đích thật, tự do để yêu thương.

Chương 2

VIỆN PHỤ PHẢI THẾ NÀO

Ngày 10.1 – 11.5 – 10.9

 l Viện phụ, người được coi là xứng đáng lãnh đạo đan viện, phải luôn luôn nhớ đến danh hiệu bề trên của mình và hành động sao cho xứng với danh hiệu ấy. 2 Quả thực, người ta tin tưởng ngài thế vị Chúa Kitô trong đan viện, nên gọi ngài bằng chính danh xưng dành cho Chúa, 3 theo lời thánh Tông Đồ: “Anh em đã nhận lấy Thần Khí nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên Abba, Cha ơi”. 4 Viện phụ không được dậy dỗ, thiết định hay truyền khiến điều gì ngoài huấn lệnh Chúa; 5 trái lại lệnh truyền và giáo lý của ngài phải như men công chính của Chúa gieo vào tâm trí môn đệ. 6 Viện phụ phải luôn luôn tâm niệm rằng giáo lý ngài dạy và sự vâng phục của môn đệ là hai điều ngài sẽ chịu tra vấn trong ngày công phán kinh khủng của Thiên Chúa. 7 Viện phụ phải ý thức rằng điều gì gia chủ thấy kém lợi nơi đoàn chiên thì sẽ quy trách cho chủ chăn. 8 Trái lại, khi đã tận lực săn sóc đoàn chiên ngỗ nghịch và cứng cổ hay đã dùng mọi phương dược cứu chữa bịnh tật chúng, 9 lúc đó chủ chăn mới hết trách nhiệm trước toà Chúa. Ngài có thể cùng ngôn sứ tuyên xưng: “Đức công chính của Chúa, con chẳng giấu nơi đáy lòng con, chân lý và ơn cứu độ của Chúa con đã nói lên. Nhưng chúng cứ coi thường và khinh miệt con ”. 10 Kết cuộc, khi ấy án tử hình sẽ giáng xuống trên bầy chiên bất phục trước sự săn sóc của chủ chăn.

Chú giải:

A – Ngày 10.1

        Chương hai này không chỉ nói về viện phụ. Quả thực, nếu đọc kỹ ta sẽ thấy ngay viện phụ được đặt trong một tương quan ba chiều: -Viện phụ mang danh hiệu bề trên và đại diện Chúa Kitô (c.1 và 2). -Viện phụ phải giảng dậy và điều khiển các môn đệ (c.4-5).-Viện phụ sẽ phải trả lẽ với một Đấng Khác, là Cha của gia đình (c.6).

Như vậy, với thánh Biển Đức, viện phụ không phải là người thứ nhất trong những người ngang hàng nhau. Điều ấy có thể gây khó chịu cho não trạng dân chủ của thời đại ta, nhưng đúng là như vậy. Để nói về viện phụ, thánh Biển Đức dùng một so sánh ưu thế: lớn hơn (danh hiệu bề trên: danh hiệu của người lớn hơn, nomen majoris, như bản la tinh viết). Viện phụ không phải là lớn nhất, ngài không thể tự coi mình như Thiên Chúa được, nhưng ngài cũng không phải là người thứ nhất trong những người bằng vai với nhau.

Điều đó dẫn tới hai hậu quả: Viện phụ phải giảng dậy và điều khiển, vì đó là nhiệm vụ của ngài, bằng lời nói và nhất là bằng việc làm. Ngài không được lẩn tránh và để mặc cho người khác lo giảng dậy và điều khiển. Vì nếu ngài không làm thì có những người khác sẽ đứng ra làm và khi đó cộng đoàn sẽ tan rã. Viện phụ phải dám đảm nhận và giữ vững vị trí của mình, bởi vì quyền bính là cần thiết cho việc phục vụ mà ngài phải thực thi dù không muốn.

Điều ấy cũng phát sinh một hậu quả từ phía cộng đoàn. Đó là mỗi đan sĩ phải đặt mình vào vị trí của người môn đệ. Nghĩa là chấp nhận rằng mình vẫn còn điều gì đó để học hỏi, rằng mình chưa biết hết mọi sự. Nhưng đan sĩ cũng tin rằng điều được loan truyền cho mình sẽ giúp mình nhận ra con đường Thiên Chúa muốn dẫn mình đi. Và như ta đều biết, tất cả là vấn đề đức tin. Ta sống đời sống cộng đoàn như một trò chơi của quyền lực, của những sức mạnh đối nghịch nhau, hay ta sống đời sống ấy như là nơi Thiên Chúa nói với ta, với mỗi người chúng ta? Đó là câu hỏi thánh Biển Đức gửi đến ta qua chương 2 này.

B – Ngày 11.5

“Đức công chính của Chúa, con chẳng giấu nơi đáy lòng con; chân lý và ơn cứu độ của Chúa, con đã nói lên. Nhưng chúng cứ coi thường và khinh miệt con”. Câu này, được trích từ Thánh Vịnh 39,11 và Isaia 1,2, cho thấy rất chính xác vai trò của viện phụ trong cộng đoàn: nói về chân lý và ơn cứu độ của Chúa. 

Vai trò của viện phụ là giúp anh em dần dần phân định được đường lối Chúa trong cuộc đời họ và cả trong những biến cố của cộng đoàn nữa. Vì trong khi suy nghĩ về cuộc đời mình, liên quan tới những gì xẩy đến cho mình, hay khi nhìn những gì xẩy ra nơi cộng đoàn, ta có khuynh hướng đánh giá chúng một cách rất nhân loại: theo những giá trị tâm lý, tình cảm, tùy thuộc vào những động thái của số đông.

Không dễ mà nhận ra được sự hiện diện của Chúa nơi những gì xẩy đến cho ta. Và nếu không để ý, chẳng mấy chốc những suy nghĩ theo kiểu con người, ước muốn thành công, tham vọng quyền lực, ham thích thú vui và tiện nghi sẽ lấn lướt. Ta sẽ có đủ lý do để nhìn mọi sự xẩy đến bằng cặp mắt thuần túy con người.

Một trong những nhiệm vụ cốt yếu của viện phụ là khai mở một viễn cảnh siêu nhiên cho những cái xem ra chỉ đơn thuần thuộc lãnh vực nhân loại. Quả thật, nếu bỏ mất ý nghĩa nội tâm của viễn cảnh ấy, ta sẽ thấy mọi sự đều là tầm thường và vô vị, khi ấy, do kiêu căng, ta sẽ khinh thường con người đang cố gắng khai quang tầm nhìn bị sương mù vây phủ trong tâm hồn ta.

C – Ngày 10.9

Mối tương quan giữa anh em trong cộng đoàn với viện phụ không hề giống với tương quan phẩm trật mà ta thấy khắp nơi trong đạo cũng như ngoài đời. Thánh Biển Đức có thể định nghĩa mối tương quan ấy theo kiểu mẫu những tương quan khác như cha gia đình, tướng lãnh quân đội, giám đốc xí nghiệp v.v. Nhưng ngài đã không chọn theo một kiểu mẫu nào như thế. Điều này chứng tỏ tương quan giữa viện phụ và anh em thuộc một lãnh vực hoàn toàn khác.

Với thánh Biển Đức, trong đan viện, viện phụ được đặt giữa một hợp lưu các tương quan. Viện phụ đại diện Chúa Kitô. Có nghĩa là viện phụ được đặt giữa hai mối tương quan. Một tương quan làm con đối với Chúa Cha, từ nơi ngài xuất phát mọi tình cha, và một tương quan làm cha đối với anh em.

Như thế, viện phụ được mời gọi sống tương quan làm con đối với Chúa Cha. Như Chúa Giêsu, viện phụ đã lãnh nhận chăm sóc những con chiên mà Chúa Cha trao cho ngài. Ngài phải ý thức điều đó. Vì thế ngài không được chểnh mảng việc dẫn dắt họ. Nhưng dẫn họ đến với ai?

Không dẫn đến với mình. Khác hẳn với tư cách làm cha lệch lạc cứ muốn lôi cuốn về cho mình tình cảm và sự quan tâm của môn đệ, tư cách làm cha của Chúa Giêsu rất trong sáng, chỉ dẫn dắt, lôi kéo về với Chúa Cha. Đó là tư cách làm cha tự xóa mình đi để tỏ cho thấy Chúa Cha, một tư cách làm cha hướng ta về lại với cõi vô biên vô tận.

Như thế, tư cách làm cha của viện phụ đòi hỏi rất cao, như thánh Biển Đức cho thấy khi trưng dẫn Thánh Vịnh 39: “Đức công chính của Chúa con chẳng giấu nơi đáy lòng, chân lý và ơn cứu độ của Ngài con đã nói lên”. Đòi hỏi nhất là đối với chính viện phụ, vì ngài phải dám nói và nhắc nhở không được chán. Vấn đề của viện phụ là phải giữ đúng vai trò của mình giữa hai mối tương quan đó. Hướng môn đệ về Chúa Cha chứ không giữ lại cho mình; không tìm làm hài lòng mọi người, nhưng khơi dậy nơi mỗi người tiếng kêu gọi từ trong thâm tâm mời tham gia vào tiến trình phụ tử này. Nếu viện phụ phải trả lẽ về giáo huấn của ngài và về sự vâng phục của môn đệ, như thánh Biển Đức nói ở câu 6, thì đặc biệt là về sự vâng phục tiếng gọi của Thiên Chúa mà mỗi người phải học cho biết lắng nghe trong cuộc sống hằng ngày.

Ngày 11.1 – 12.5 – 11.9

 11 Thế nên, ai đã nhận danh hiệu viện phụ, phải biết hướng dẫn môn đệ bằng hai hình thức giáo hoá: 12 nghĩa là lấy việc làm hơn là lời nói mà chỉ cho họ tất cả những gì lành thánh. Vậy, với những môn đệ có khả năng nhận thức, ngài dùng lời nói mà giảng dạy lề luật Chúa; còn với những môn đệ cứng lòng hoặc chất phác, ngài hãy lấy việc làm mà bày tỏ huấn lệnh Chúa. 13 Tất cả những gì ngài dạy cho môn đệ biết là trái, ngài hãy lấy việc làm mà chỉ cho họ thấy là không được làm, kẻo giảng cho người mà chính ngài lại bị luận phạt, 14 sợ rằng có ngày Thiên Chúa sẽ khiển trách ngài như một tội nhân: “Giới luật của Ta, sao ngươi hằng nhắc nhở, miệng ngươi công bố lời giao ước của Ta, nhưng chính ngươi lại chán ghét điều sửa dạy, lời Ta truyền đem vất bỏ sau lưng”? 15 Lại rằng: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt người anh em, còn cái xà trong mắt ngươi thì lại không thấy?”

Chú giải:

A – Ngày 11.1

Với thánh Biển Đức, viện phụ không chỉ giảng dậy bằng lời nói, nhưng bằng cả lời nói lẫn việc làm. Thánh Biển Đức hy vọng rằng ai không chịu nghe lời sẽ được cảm hóa nhờ gương sáng. Nhưng phải làm sao đây khi một đan sĩ không muốn nghe cũng chẳng muốn nhìn? Vì trong một cộng đoàn lúc nào cũng có thể có những đan sĩ không chịu nghe cũng chẳng chịu nhìn. Họ cứ sống theo cách của họ, bất chấp cộng đoàn nơi họ đang ở.

Người ta có thể nhắc nhở, dù xem ra như quá khắt khe, vậy mà ngay sau đó họ vẫn cứ như thường. Trái lại, có những người khác do óc chống đối mà làm ngược lại điều được yêu cầu, giống như con trẻ mới lớn muốn chứng tỏ mình khi đập phá đồ đạc. Khi ấy viện phụ có thể trở nên cứng cỏi, như một thứ cảnh sát, hoặc ngược lại, chán nản, buông xuôi và bỏ mặc.

Thánh Biển Đức mở ra cho ta một nhãn giới khác qua trích dẫn Thánh Kinh ở câu 15. Đó là bản văn Mt 7,3 trong dụ ngôn cọng rơm và cái xà. Chúa Giêsu không nói: con không thể làm gì được cho người anh em đâu vì con chưa hoàn hảo. Bởi như thế sẽ mâu thuẫn với đoạn Phúc Âm khác khi ngài bảo nhắc nhở người anh em có lỗi, trước hết riêng mình với họ, rồi có thêm người làm chứng. Không, Chúa Giêsu không bảo cứ để mặc, nhưng ngài lưu ý tới thái độ tâm hồn của người có trách nhiệm nhắc nhở. Phải chăng họ sẽ làm như người pharisiêu muốn bắt kẻ khác giữ luật? Hay như người môn đệ Chúa muốn cho anh em mình thăng tiến, muốn cho cộng đoàn nên hoàn hảo hơn? Yêu thương vẫn khó hơn là áp dụng kỷ luật. Nhưng tình yêu cũng không kém đòi hỏi. Và, như ta biết, vấn đề thực sự là vấn đề con tim. Vì chỉ con tim mới có thể nói với con tim và đánh động được con tim người khác.

B – Ngày 12.5

Khi phác họa khuôn mặt viện phụ, thánh Biển Đức nêu bật những nét có thể áp dụng cho mỗi người trong ta, dù người ấy ở vị trí nào trong cộng đoàn. Mỗi người đều có thể trở thành cha, có thể truyền ban sự sống bằng sự hiện diện của mình. Trong mọi cộng đoàn đều có những ông thầy âm thầm trao chuyển lại những gì quí nhất của truyền thống đan tu, bằng sự hiện diện của họ.

Vì, một cách nào đó, phương thế duy nhất để trao chuyển những giá trị của đời đan tu đó là sống những giá trị ấy trước để cho người khác cũng thích sống như mình. Đây không phải là muốn làm gương, nhưng đúng hơn là để cho cuộc sống mình dần dần tỏa sáng.  

Cách thế duy nhất học sống đời đan tu không phải là học hỏi, đọc sách vở thật nhiều để am hiểu mọi vấn đề của đời sống này, nhưng là sống theo gương các bậc tiền bối của ta.

Đặc trưng của đời đan tu đó là đời sống này không phải là một tri thức, một minh triết, một khoa học thực nghiệm. Học hỏi sống đời đan tu là thụ huấn với một vị thầy, dành hết thời gian cho thực tập để lời nói và hành động dần dần ăn khớp với nhau.

C – Ngày 11.9

Bổn phận của viện phụ có thể được tóm lại chỉ bằng một từ: “praeesse”, mà ở câu 11 dịch là “hướng dẫn”: “viện phụ phải hướng dẫn anh em bằng hai hình thức giáo hóa”. Tiếng “prae-esse” theo từ nguyên có nghĩa là “ở trước”. Và ở trước bằng hai hình thức: nói và tỏ cho thấy. Thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ hành động cho hợp với lời nói, phải làm như đã nói.

Nhưng phải chăng như thế là quá đòi hỏi đối với một con người yếu đuối và có giới hạn, một con người mà ai cũng nhìn thấy những khuyết điểm? Viện phụ đâu phải Thiên Chúa! Đúng là thánh Biển Đức muốn thế sao? Do kinh nghiệm ta đều biết rằng chẳng mấy chốc người ta sẽ không chịu nổi những con người hoàn hảo. Sự thánh thiện không phải là thứ hoàn hảo hình thức dồn nén viện phụ vào vai trò khuôn mẫu hàng đầu về đời sống đan tu. Vì thế thánh Biển Đức sẽ đi xa hơn.

Thực vậy, nếu viện phụ phải “prae-esse”, “ở trước” anh em thì trước hết không phải bằng sự hoàn thiện, nhưng bằng sự khiêm tốn. Ngài phải biết rằng cái xà trong mắt mình còn lớn hơn cọng rơm ngài thấy trong mắt anh em (x.c.15). Vì nhiệm vụ, ngài phải sửa chữa, khích lệ anh em, nhưng chỉ ai không đưa mình ra làm gương mẫu cho người khác mới có thể sửa chữa và khích lệ anh em mình. Vì thế, viện phụ không bao giờ nên sợ những giới hạn, những khuyết điểm của mình. Những cái đó chẳng hề là chướng ngại vật, nhưng thật sự là ân sủng, vì chúng s ẽ cho ta có được kinh nghiệm mà thánh Phaolô nói tới ở thư 1 Tm 1,15-16, rằng chính Thiên Chúa hoạt động chứ không phải ta.

Điều đó không chỉ đúng cho viện phụ mà còn cho mỗi người chúng ta. Nhận biết những khuyết điểm, những sai lầm chẳng hề giảm uy tín của ta, nhưng trái lại khiến ta xứng đáng hơn với sự tin tưởng của anh em. Vì như thế họ có thể cảm nghiệm được rằng nếu đan viện đứng vững chính là do bởi Thiên Chúa giữ gìn.

Ngày 12.1 – 13.5 – 12.9

 16 Trong đan viện, viện phụ đừng thiên vị ai. 17 Đừng thương người này hơn người nọ, trừ khi nhận thấy kẻ ấy trội hơn về các việc lành và sự vâng phục. 18 Không được ưu đãi người tự do hơn người đến từ giai cấp nô lệ, trừ khi có lý do chính đáng. 19 Nhưng nếu vì lẽ công bằng mà viện phụ xét là cần phân biệt như thế thì ngài cứ làm, bất kể người được ưu đãi thuộc giai cấp nào; ngoài ra, ai nấy cứ giữ thứ vị của mình. 20 Vì dù nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta là một trong Chúa Kitô, cùng chiến đấu để phụng sự một Chúa, vì Thiên Chúa không thiên vị ai. 21 Mà nếu Chúa có phân biệt, thì chỉ tùy theo sự hơn kém về việc lành và lòng khiêm tốn. 22 Vì thế, viện phụ phải thương yêu mọi người như nhau, áp dụng một quy tắc chung cho mọi người, tùy theo công trạng của họ.

Chú giải:

A – Ngày 12.1

“Viện phụ phải yêu thương mọi người như nhau”. Chỉ thị này ở câu 22 xem ra khó mà dung hòa được với điều thánh Biển Đức nói ở câu 32: “Ngài phải tùy theo tính tình và sự hiểu biết của họ mà thích ứng sao cho phù hợp với mọi người”. Làm sao xử với mọi người như nhau mà vẫn thích ứng được với từng người? Làm sao giữ được sự công bằng trong khi vẫn quan tâm tới sự khác biệt về tính khí? Viện phụ phải làm một điều không thể thực hiện được sao?

Khi Thánh Biển Đức bảo phải âu yếm với người này và dùng roi vọt với người kia thì thoạt tiên có vẻ như ngài bỏ qua nguyên tắc về công bằng tuyệt đối. Nhưng có đúng vậy không? Khi tôi hoán cải trở về với đời sống đạo, để ôn lại đức tin, tôi đã dậy giáo lý trong vòng một năm cho bọn trẻ hay phá phách thuộc các thành phố mỏ. Trong các học trò của tôi có một đứa rất ngỗ nghịch, nó không bao giờ học bài và phá tới độ thường bị phạt ngồi góc nhà hay ngoài cửa lớp. Thế mà vào ngày sau cùng khi tôi kết thúc khóa học thì em ấy là người duy nhất đã đến tặng quà cho tôi. 

Thực ra, thánh Biển Đức có lý. Có những người cần xử mạnh tay, có những người lại phải êm ái nhẹ nhàng, nhưng luôn luôn vẫn chỉ bằng cùng một tình yêu thương. Sửa dậy, khiển trách, khích lệ, như thánh Phaolô nói, là dấu hiệu của tình thương, dấu hiệu cho thấy rằng mỗi người đều có giá trị của họ, rằng mọi người đều đáng giá như nhau. Cách làm có thể khác nhau, nhưng tình thương vẫn chỉ là một. Đôi khi, nhìn những cách xử sự khác nhau như thế người ta có thể hoài nghi. Nhưng có lẽ phải cần đến một trái tim con trẻ để nhận ra được tình thương đích thực.

B – Ngày 13.5

“Tình yêu không bị ép buộc”. Vậy mà hình như thánh Biển Đức muốn đòi viện phụ phải dẹp bỏ những tình cảm riêng và hoán cải khả năng yêu thương của ngài. Điều đáng cho viện phụ quan tâm không phải là những đức tính của anh em hay thiện cảm đối với họ, nhưng là cách họ sống. Thánh Biển Đức nói tới điều đó ở câu 21: “Nếu Chúa có phân biệt thì chỉ tùy theo sự hơn kém về việc lành và lòng khiêm tốn”.

Việc hoán cải tình cảm yêu thương đó, thánh Biển Đức không chỉ đòi nơi viện phụ mà còn cả nơi mỗi người chúng ta nữa. Trong đời đan tu, ta phải được hướng dẫn bằng sự ham thích điều thiện, bằng vẻ đẹp của cuộc sống được biến đổi nhờ việc tìm kiếm Chúa, chứ không phải bằng những nét hấp dẫn hay tình cảm. Nhưng chỉ cần nhìn vào cách ứng xử, vào những mối thiện cảm tự nhiên của ta để thấy rằng ta còn xa hay rất xa với điều đó.

Việc hoán cải tình yêu: yêu vì Chúa chứ không vì mình, không phải là việc dễ thực hiện. Nó đòi hỏi một nỗ lực nội tâm thực sự. Thế giới của tình cảm, của cảm xúc là một trong những thế giới kín nhiệm và huyền bí nhất. Một thế giới mà người ta ít có được sự sáng suốt. Tục ngữ đã chẳng nói tình yêu làm cho mù quáng đó sao? Sự mù quáng này ta dễ thấy, nhất là nơi người khác. Hiếm có người ý thức được mình bị tình cảm hướng dẫn. Chính vì thế, một trong những nỗ lực lớn nhất của đan sĩ là làm sáng tỏ mọi thứ oán ghét và mọi thứ yêu thương ẩn khuất nơi lòng mình.

C – Ngày 12.9

Thật là bình thường khi viện phụ cần đến một số anh em để giúp ngài thi hành nhiệm vụ. Ngài không có khả năng chuyên môn về mọi lãnh vực, cũng không có thời giờ và phương tiện để giải quyết hết những gì xẩy ra. Thánh Biển Đức không phủ nhận điều đó, mà còn đặt một số vị hữu trách để giúp viện phụ: như viện phó, quản lý, tập sư, người tiếp khách, y tá, người giữ hiệu, người giữ cổng v.v.

Nhưng điều ấy có thể gây ra một khó khăn như thánh Biển Đức nêu lên trong đoạn tu luật này, đó là khó khăn trong việc tuyển chọn người. Quả thực, khó mà biết được viện phụ phải chọn người theo tiêu chuẩn nào cũng như người anh em được tín nhiệm phải có những khả năng nào và tới mức độ nào. Về vấn đề này thánh Biển Đức tỏ ra rất minh bạch.

Đối với ngài, điều đáng kể không phải là khả năng chuyên môn hay sự thông minh, cũng không phải kết quả đạt được trong công việc ủy thác. Nhưng là phẩm chất con người, như thánh Biển Đức nói tới hai lần ở câu 17 và câu 21. Ngài bảo: người nào tốt hơn nhờ các việc lành và sự vâng phục (c.17); và người nào trổi vượt hơn về việc lành và lòng khiêm tốn (c.21).

Chỉ có một lý do khiến đan sĩ được vinh dự, chỉ có một căn cứ để viện phụ có thể chuộng anh em này hơn anh em khác, đó là sự vâng phục và lòng khiêm tốn, chứ không phải tài năng, uy tín, hiệu quả công việc hay nổi nang gì. Nếu viện phụ làm khác đi, ngài sẽ sai lầm và có nguy cơ khiến cộng đoàn bị lạc hướng.

Ngày 13.1 – 14.5 – 13.9

 23 Trong việc giáo huấn, viện phụ phải luôn luôn theo mẫu mực thánh Tông Đồ đề ra: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ ”. 24 Nghĩa là phải tùy cơ ứng biến: dung hòa lời dịu dàng với giọng răn đe, khi tỏ vẻ như thầy nghiêm nghị, lúc lại âu yếm như cha hiền. 25 Nghĩa là với những người vô kỷ luật và quấy rồi, ngài phải nặng lời khiển trách; còn với những ai vâng phục, nhu mì, nhẫn nại, ngài hãy khuyến khích họ tiến tới; còn những kẻ ươn lười ngạo mạn, cha khuyên ngài hãy quở phạt, sửa chữa.

26 Ngài chớ bao che tội lỗi của phạm nhân, nhưng vừa khi thấy chớm mọc, ngài phải hết sức tiêu diệt tận căn. Ngài hãy nhớ tới thảm họa xẩy đến cho tư tế Hêli tại Silô. 27 Với những ai tế nhị và thông minh, ngài chỉ cần nhắc nhở một hai lần là đủ. 28 Nhưng với những kẻ xấu nết, ngoan cố, kiêu căng, bất phục, ngài hãy dùng roi vọt mà trừng trị, hoặc những hình phạt thể xác mà trấn át ngay lúc tật xấu vừa phát sinh, vì có lời chép: “Người ngu không thể lấy lời nói mà sửa dạy được”. 29 Lại rằng: “Hãy dùng roi mà sửa phạt con cái ngươi, để cứu linh hồn nó khỏi chết”.

Chú giải:

A – Ngày 13.1

“Để cứu linh hồn nó khỏi chết” (Cn 23,14). Khi trích dẫn lời sách Châm ngôn để kết thúc đoạn tu luật ta vừa đọc, thánh Biển Đức đưa ra định hướng cho hành động của viện phụ. Nếu viện phụ khiển trách, khích lệ, răn đe, tỏ ra vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, sửa phạt người chểnh mảng và quanh co, thì không phải vì sự ổn định của đan viện, cũng không vì muốn duy trì kỷ cương, nhưng để làm nảy sinh và tuôn trào sự sống đích thực.

Vì có một con đường dẫn tới cái chết, và một con đường dẫn tới hạnh phúc cũng như tới sự sống. Đó là hai con đường Thiên Chúa đã truyền cho Môsê loan báo cho dân: sự sống và hạnh phúc, sự chết và bất hạnh. Chỉ có một con đường dẫn tới sự sống, và theo cách của mình, thánh Biển Đức hiện thực hóa kinh nghiệm trải dài qua toàn bộ Thánh Kinh. Con đường ấy ta không dễ dàng nhận ra được, chính vì vậy mà phải khuyến khích, nhắc nhở, sửa dậy, bởi lẽ yêu thích sự sống không phải là điều đơn giản.

Những nẻo đường dẫn tới cái chết thì dễ đi và rộng rãi. Và đôi khi ta bị lôi cuốn bởi một thứ bản năng muốn chết. Lời mắng nhiếc của bà vợ ông Gióp là một thí dụ: “Hãy nguyền rủa Thiên Chúa rồi chết đi!” Nhưng ông Gióp chọn sự sống, ông chọn đối diện với Thiên Chúa, ông muốn trở thành một người sống khi thân thưa với Thiên Chúa của những người sống, Thiên Chúa của các tổ phụ Abraham, Isaác, Giacóp. Vì Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Con đường dẫn tới sự sống đòi ta phải chịu nhiều đau khổ, nhưng Thiên Chúa lại chờ đợi ta trên con đường này để ta trở nên những kẻ sống.

B – Ngày 14.5

Với thánh Biển Đức, nhiệm vụ giáo huấn của viện phụ bao gồm ba điểm chính được thánh nhân nêu lên khi nhắc lại lời thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi Timôthê (4,2): “khiển trách, khích lệ, đe loi”. Tất cả đoạn tu luật này là một bài chú giải ba từ đó. Tôi muốn dừng lại ở một chi tiết nơi câu 26, có nhắc đến Hêli, tư tế ở Silô (1 Sm 2-4).

Câu truyện của tư tế Hêli được thuật lại từ chương 2 đến chương 4 sách 1 Samuel. Câu truyện này thường được coi như trình thuật về ơn gọi của Samuel. Hêli là người đã nhận ra ơn gọi của Samuel và giúp cậu biết nghe tiếng Chúa (1 Sm 3). Nhưng ông lại để cho tình cảm chi phối tới độ không còn khả năng dậy cho các con ông biết nghe tiếng Chúa nữa. Khi ấy một người của Chúa, một tiên tri, tới quở trách ông (ch. 2), vì hai người con của ông đã lạm dụng chức vụ tư tế.

Ông Hêli đã biết nhận ra tiếng Chúa nói với Samuel, nhưng lại không nhận ra tiếng Chúa nói với ông và các con ông. Đó là cái mâu thuẫn lớn của trình thuật này. Chương 4 sách 1 Samuel sẽ thuật lại cho ta cái chết của các con ông Hêli và cái chết của chính ông. Ý tưởng nổi bật của đoạn Kinh Thánh này là ông Hêli đã không thể giúp các con ông lớn lên, vì ông không biết mình có tự do thật không.

Một trong những nguy cơ lớn rình rập viện phụ cũng như mỗi người chúng ta, đó là muốn làm cho mình được yêu quí bằng mọi giá, ngay cả phải hy sinh sự thật và thiện ích của người khác. Chọn sự thiện luôn luôn là điều khó khăn, vì điều đó thường đòi ta phải giáp mặt với một bức tường, với sự chống cự của con tim chai đá và bướng bỉnh (c.28). Như vậy, dám yêu không phải là chuyện dễ. Thánh Phaolô thường nhắc lại điều đó trong các thư của ngài.

C – Ngày 13.9

Để hiểu ý nghĩa của đoạn tu luật này, cần thiết phải nhớ lại bầu khí thiêng liêng hàm ẩn trong câu trưng dẫn ngay ở đầu đoạn văn: “khiển trách, răn đe, khuyên nhủ”, được trích từ thư 2 Timôthê (2 Tm 4,2). Timôthê còn trẻ, sức khỏe yếu kém, không phải là một con người tài giỏi, một siêu nhân. Nhưng ông đã nhận được một hồng ân, một hồng ân Thiên Chúa ban, và hồng ân này không phải vì lợi ích cho bản thân ông, nhưng ông đã lãnh nhận vì người khác. Dầu sao, ông vẫn không được nản chí, không được đầu hàng. Ông phải chu toàn sứ vụ.

Có lẽ cũng khó khăn, cũng đau khổ cho viện phụ khi thi hành tác vụ, cũng như cho anh em khi chấp nhận được phục vụ. Một điều kiện cần duy nhất, đó là đức tin. Vì nếu ta chỉ coi tác vụ ấy như việc phải làm để giữ gìn kỷ luật, bảo tồn trật tự, nếu đó chỉ là vấn đề quyền bính, thì tất cả sẽ sụp đổ. Đức tin cần thiết cho người thi hành tác vụ cũng như cho người được phục vụ.

Thật là mâu thuẫn, khi ở câu 29, thánh Biển Đức trưng dẫn sách Châm Ngôn (23,14): “Hãy dùng roi mà sửa phạt con cái ngươi để cứu linh hồn nó khỏi chết”. Có lẽ điều ấy diễn tả đúng nhất ý nghĩa sâu xa của tác vụ mà viện phụ phải thi hành. Quả thực, viện phụ cũng như anh em không được quên rằng mục đích thiết yếu của đời đan tu là giúp cho mình được giải thoát và đạt tới tự do nội tâm. Ta chỉ có thứ tự do này sau khi đã được giải thoát khỏi sợ hãi, dối trá, khỏi tất cả những gì ngăn cản ta thực hiện định mệnh cao cả mà Thiên Chúa mời gọi ta đạt tới.

Vì nếu ta vào đan viện thì không phải là để làm công kia việc nọ, để thu tích hàng đống những đồ vặt vãnh mà ở ngoài đời ta sẽ dễ dàng có được. Nếu ta đến đây thì không phải là để sống nước đôi, sống giả vờ. Nhưng chính bởi vì ta cảm thấy, mỗi người theo cách của mình, rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới làm ta mãn nguyện, và nếu không có Chúa mọi sự khác đều chẳng đáng gì.

Thiết tưởng thừa tác vụ của viện phụ trước hết là khơi dậy trong lòng anh em hồng ân họ đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa, khơi dậy niềm khát khao to lớn hơn chính bản thân họ và ngăn ngừa họ khỏi tự mãn với những thành công của mình. 

Ngày 14.1 – 15.5 – 14.9

 30 Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai, mang danh hiệu gì. Ngài phải biết rằng kẻ được ủy thác nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều. 31 Ngài hãy ý thức rằng ngài đã lãnh nhận một nhiệm vụ khó khăn và cam go biết bao, tức là việc hướng dẫn các linh hồn và phục vụ bá tánh. Quả thế, phải dịu dàng với người này, khiển trách người nọ, thuyết phục người kia. 32 Ngài phải tùy theo tính tình và sự hiểu biết của họ mà thích ứng sao cho phù hợp với mọi người, để không những khỏi phải buồn vì đoàn chiên được ủy thác bị thiệt thòi, mà còn vui mừng vì đoàn chiên lành tăng số.

Chú giải:

A – Ngày 14.1

        Thánh Biển Đức nhắc lại câu ngài đã nói ở đầu chương 2 này: “Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai”. Động từ “nhớ” sẽ còn trở lại một lần nữa ở cuối chương.

Ta có thể tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại nhấn mạnh nhiều như thế đến việc viện phụ phải nhớ đến danh hiệu của mình. Như ta đã biết, danh hiệu ấy nói lên một ơn gọi mà thánh Biển Đức xác định bằng hai động từ trong bản văn tiếp theo: -viện phụ phải “quản trị” (bản la tinh là “regere”, từ này có gốc là “rex” nghĩa là vua); -viện phụ phải “phục vụ” (bản la tinh là “servire”, có gốc là “servus” nghĩa là nô lệ, tôi tớ).

Hai từ này, vua và tôi tớ, diễn dịch hoàn hảo ý tưởng được khai triển ở đầu chương: “Trong đan viện, người ta tin ngài đại diện Chúa Kitô, đấng mà ngài mang danh hiệu”. Danh hiệu này chính là “vua và tôi tớ”.

Ở đây ta thấy có sự mâu thuẫn giữa hai từ này. Ta dễ hình dung được thế nào là một ông vua và thế nào là một tôi tớ. Nhưng đây lại là một ông vua tôi tớ của mọi người? Sự mâu thuẫn này nhắc ta nhớ đến Chúa Kitô, chỉ duy mình ngài là Vua và Tôi Tớ đích thực.

Khi tỏ mình ra là tôi tớ hơn cả chính là lúc Chúa Kitô mạc khải cho ta vương quyền của ngài. Đó là nghịch lý lớn lao của Mạc khải: vinh quang và thập giá. Nơi nghịch lý này ta thấy được trọn vẹn quyền bính trong Giáo Hội. Trái với quyền bính trong thế gian, được xây dựng trên sức mạnh, uy thế và giầu sang, quyền bính trong Giáo Hội xây dựng trên việc từ bỏ chính mình. Thánh Phaolô diễn tả điều đó khi quả quyết: “Chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh”. Như vậy là “quản trị” và “phục vụ” đã trở nên đồng nghĩa với nhau.

B – Ngày 15.5

Hướng dẫn các linh hồn là một nghề khó khăn, ngay cả không sao làm nổi nữa, vì, như Thánh Kinh nói, chỉ mình Thiên Chúa mới biết được lòng con người. Bởi vậy, dù viện phụ có là tâm lý gia giỏi nhất, hay nhà ngoại giao khéo léo nhất, hoặc cổ động viên linh hoạt nhất cũng không đủ. Nhiệm vụ của ngài khác hẳn nhiệm vụ của những người như thế.

Những khả năng tài giỏi, khéo léo có thể cho ta cảm tưởng là ngài nắm được cộng đoàn. Tuy nhiên, Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi, người ta không biết Thần Khí từ đâu tới và đi đâu. Điều đó làm cho nhiệm vụ của viện phụ vừa rất phức tạp vừa rất đơn giản. Thực vậy, chỉ cần đi theo Chúa từng bước một, chấp nhận ở lại trong sương mù, bằng lòng sống theo kế hoặch của Chúa hơn là đòi theo kế hoặch riêng. Tựu trung là rất đơn giản.

Nhưng chính vì đơn giản mà hóa ra phức tạp, bởi lẽ điều đó đòi phải chấp nhận không tự mình tác động trên các biến cố, các tâm hồn. Và như vậy thì cần triệt để hoán cải. Hoán cải, tự do nội tâm, cởi mở trước tác động của Thần Khí là những điều cộng đoàn cần hơn hết, là những điều cộng đoàn đợi chờ nơi viện phụ.

Viện phụ phải chấp nhận không bao giờ biết được lời ngài nói có hiệu quả không, có đánh động tâm hồn anh em không. Ngài phải hành động như thể mọi sự tùy thuộc nơi mình, trong khi vẫn biết rằng mọi sự đều là hồng ân. Thiên Chúa làm việc qua viện phụ, và không nhất thiết mang lại hiệu quả như viện phụ nghĩ. Nếu viện phụ bằng lòng chấp nhận, điều ấy có thể giúp ngài được hết sức tự do và tăng trưởng về đàng thiêng liêng, cũng như giúp cho cộng đoàn tươi trẻ lại trong Thánh Thần.

C – Ngày 14.9

“Viện phụ hãy luôn nhớ mình là ai, mang danh hiệu gì”. Ta có thể giải thích câu 30 này theo hai cách khác nhau. Hoặc coi phần thứ hai của câu như là để xác định cho phần thứ nhất: “nhớ mình là ai, có nghĩa là nhớ mình mang danh hiệu gì”; hoặc coi phần thứ hai như thêm vào một yếu tố mới: “một đàng nhớ mình là ai, đàng khác nhớ mình mang danh hiệu gì”. Giải thích theo cách thứ hai sẽ giúp ta hiểu rõ hơn điều thánh Biển Đức muốn nói.

Thực vậy, tất cả ơn gọi của viện phụ có thể tóm gọn trong việc chọn lựa giữa điều ngài là và ơn gọi ngài đã lãnh nhận. Ta có thể giải quyết việc chọn lựa này bằng hai cách hoàn toàn trái ngược nhau. Cách thứ nhất hệ tại ở chỗ tự đồng hóa với nhiệm vụ, tưởng mình là cái mình được mời gọi lãnh nhận. Khi ấy ta sẽ cho mình là cần thiết, không thể thay thế được. Hoặc, ngược hẳn lại, viện phụ ý thức rõ sự chênh lệch giữa hiện trạng của mình với điều mình phải là, khiến ngài đâm ra nản lòng, buông xuôi.

Thật ra, giải pháp đích thực nằm ở giữa hai cách giải quyết đó. Đây là một cách chọn lựa tốt, dù khó thực hiện, vì là nguồn mạch phát sinh mọi tiến bộ thiêng liêng. Chính khi ý thức mình chẳng đáng gì, và cả đến mỗi ngày mỗi thấy mình yếu kém hơn, mà viện phụ có thể khám phá ra rằng cái chẳng đáng gì ấy lại có thể làm được nhiều chuyện, nếu ngài nương tựa vào Chúa.

Càng thấy mình chẳng là gì, viện phụ càng nhận ra mình có thể làm được tất cả. Vì sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trong sự yếu hèn. Sự yếu hèn, dòn mỏng của ta không phải là một trở ngại, nhưng là điều kiện cần thiết để ta có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa làm được mọi sự. Vấn đề là để cho sức mạnh của Chúa hoạt động qua bản thân ta, chứ không cầm giữ lại cho mình.

Ngày 15.1 – 16.5 – 15.9

 33 Trước hết, ngài đừng sao lãng hoặc coi nhẹ phần rỗi các linh hồn Chúa ủy thác mà quá bận tâm đến của cải thế tục mau qua chóng tàn. 34 Nhưng ngài phải xác tín ngài đã nhận việc hướng dẫn các linh hồn, thì tất nhiên phải trả lẽ về các linh hồn ấy. 35 Để khỏi viện cớ tài chính eo hẹp, ngài hãy nhớ lời Thánh Kinh: “Trước hết, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”. 36 Và có lời: “Kẻ kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi”.

37 Ngài nên biết rằng ai đã nhận hướng dẫn các linh hồn thì phải sẵn sàng trả lẽ. 38 Số anh em thuộc quyền ngài săn sóc, dù là bao nhiêu, ngài hãy nhận thức chắc chắn rằng đến ngày công phán ngài sẽ phải trả lẽ với Chúa về các linh hồn ấy và dĩ nhiên cả linh hồn mình nữa. 39 Vì trong khi ngài sợ Chúa sẽ tra vấn chủ chăn về các con chiên đã được ủy thác, trong khi lo trả lẽ về người khác thì ngài cũng biết lo cho chính mình. 40 Và trong khi khuyên người khác tu sửa, thì chính ngài cũng tự sửa mình.

Chú giải:

A – Ngày 15.1

Trong đoạn ngắn này bốn lần thánh Biển Đức nhắc nhở viện phụ trước hết phải quan tâm đến “phần rỗi các linh hồn” (c.33,34,37,38), kể cả linh hồn mình. Với thánh Biển Đức, trong cuộc sống thường nhật, phần rỗi các linh hồn phải được chăm lo hơn mọi thứ bận tâm khác.

Mối bận tâm đầu tiên liên quan tới “của cải thế tục mau qua chóng tàn” (c.33). Thánh Biển Đức nhắc nhở rằng trong cuộc sống đan viện có một trật tự về các giá trị khác nhau. Và ngài bảo viện phụ phải cẩn thận kẻo lại đảo lộn trật tự đó mà thực tình chẳng hay biết. Có thể xẩy ra thảm trạng là trong đan viện người ta sao lãng điều cốt yếu: tìm Chúa, để bận tâm đến cái phụ thuộc: tìm của cải trần gian và những thực tại đời này. Như thế, trong những điều phải lựa chọn, thuộc lãnh vực cộng đoàn hay cá nhân, điều phải chọn trước hết là lợi ích các linh hồn.

Mối bận tâm thứ hai có thể gây tổn hại cho lợi ích các linh hồn không thuộc phạm vi vật chất nữa nhưng thuộc cách sống. Viện phụ không mong gì sửa dậy được người khác nếu ngài không tự sửa mình (c.39-40). Và đó là một điểm cốt yếu khác trong trách nhiệm của viện phụ: ngài không mong dẫn dắt anh em mình trên đường ngay nẻo chính được nếu ngài lại không đi vào đó.

Như vậy, trong việc hướng dẫn cộng đoàn, viện phụ phải làm hai điều. Trước hết là chú tâm tới trật tự các giá trị trong cuộc sống cụ thể hằng ngày của cộng đoàn, sau đó chính ngài phải đi vào con đường ngài muốn dẫn anh em đi. Nói về cầu nguyện, về việc đọc sách thiêng liêng, về khó nghèo, thinh lặng v.v mà chính mình lại không thực hiện thì đó là cái bẫy nguy hiểm nhất cho một cộng đoàn đan tu. Muốn nâng đỡ anh em thì trước hết phải coi xem mình có sống như mình nói không.

B – Ngày 16.5

Ở cuối chương 2 này, thánh Biển Đức đặt một ưu tiên tuyệt đối: điều đáng kể trước hết là các linh hồn chứ không phải sự vật. Ngài nhắc lại chân lý đó nhiều cách khác nhau, bằng những trích dẫn Thánh Kinh, bằng lời đe loi hay thuyết phục.

Hướng dẫn các linh hồn thì khác biệt và phức tạp hơn lo đến những chuyện vật chất. Về vật chất ta có thể phần nào an tâm, có thể dự liệu trước. Còn với các linh hồn thì luôn luôn bất ngờ, phức tạp, bấp bênh, đôi khi làm ta thất vọng, nhưng cũng thường gây ngạc nhiên nữa. Như vậy, chấp nhận chăm sóc các linh hồn, chấp nhận coi con người hơn sự vật đòi hỏi ta phải thực sự hoán cải.

Con người không bao giờ am hợp khít khao với nhãn hiệu họ mang, không bao giờ theo đúng thời dụng biểu đã định. Người ta chẳng sao biết được tất cả những động cơ thầm kín của tâm lý học và phân tâm học, người khác vẫn luôn luôn là người khác. Đấy mới là điều khó khăn.

Con người là một mầu nhiệm. Giáp mặt với cái thấp hèn và độc ác, cũng như cả với sự cao cả và sự khiêm tốn quên mình có thể khiến ta hoảng sợ. Nhận trách nhiệm chăm sóc các linh hồn là chấp nhận giáp mặt với một mầu nhiệm. Và tất cả ta đều bị cám dỗ coi người khác như một đối tượng đã quen thuộc.

C – Ngày 15.9

Trong đoạn tu luật ta vừa nghe, bốn lần thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc viện phụ có trách nhiệm về anh em và về chính mình. Điều ấy có hai ý nghĩa: trước hết bổn phận viện phụ là phục vụ người khác, hai là không thể phục vụ người khác mà lại không quan tâm đến mình.

Như thế, bổn phận viện phụ là phục vụ người khác. Người khác là trước hết, nhất là trước những của cải vật chất, trước hiệu quả kinh tế. Với thánh Biển Đức, đó là vấn đề nguyên tắc: linh hồn bất tử trước mọi cái tạm thời và mau qua (c.33). Nhưng người khác, đó là người khác với mình, người mà mình không ngừng phải thích ứng với.

Nhưng, để quan tâm đến người khác, cần thiết viện phụ phải biết mình. Trước khi đoán xét người khác, “ngài phải lo đến chính mình” (c.39). Cũng thế, “trong khi khuyên người khác tu sửa, thì ngài cũng tự sửa mình” (c.40). Như vậy, không thể giúp người khác, nếu không ý thức rằng mình cũng phải lo tiến tới.

Hai phương diện: trợ giúp người khác và biết mình không thể tách rời nhau khi thực thi bất cứ quyền bính nào trong đời sống đan tu. Dù muốn hay không ta vẫn luôn được biến đổi rất sâu xa do nhiệm vụ ta nắm giữ. Khi đột nhập vào cuộc sống ta, người khác buộc ta phải ý thức những giới hạn, những thiếu sót, những nghèo nàn của ta. Nếu chấp nhận điều đó, ta sẽ được lớn lên.

Chương 3

VIỆC HỘI Ý ANH EM

Ngày 16.1 – 17.5 – 16.9

 l Trong đan viện mỗi khi có việc quan trọng cần giải quyết, viện phụ sẽ triệu tập toàn thể cộng đoàn và tuyên bố lý do. 2 Sau khi lắng nghe ý kiến anh em, chính ngài sẽ tự cân nhắc, rồi thực hiện điều ngài xét là ích lợi hơn. 3 Sở dĩ cha bảo phải hội ý mọi người, vì Chúa thường tỏ cho kẻ ít tuổi những ý kiến hay hơn. 4 Anh em hãy góp ý với tất cả lòng khiêm tốn tùng phục, chứ đừng cố chấp bênh vực quan điểm của mình. 5 Việc quyết định thuộc quyền viện phụ. Điều ngài xét là hay hơn, thì mọi người phải vâng theo. 6 Nhưng nếu môn đệ có bổn phận vâng lời thì thầy có nghĩa vụ sắp đặt mọi việc cho sáng suốt và công bình.

 Chú giải:

A – Ngày 16.1

         Dưới cái nhìn của thánh Biển Đức, cuộc họp cộng đoàn đan viện không hề giống với một hội nghị dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi người một lá phiếu. Nhưng theo ngài, đây là một tiến trình phân định, trong đó mỗi người đi tìm để nhận ra ý Chúa.

Để nhận ra ý Chúa, cần có một số điều kiện: a) Phải triệu tập toàn thể cộng đoàn (c.1), cả những anh em nhỏ nhất (c.3). b) Mỗi người phải nêu ý kiến, nhưng với lòng khiêm tốn và tùng phục, không bảo thủ ý mình (c.4). Vì đây không phải là lúc để áp đặt ý kiến riêng, nhưng để cộng đoàn cùng nhau suy tư, nhờ thế mà trong suốt cuộc trao đổi các ý kiến sẽ phát sinh, sẽ thay qua đổi lại và làm phong phú cho nhau.

Tiến trình này đòi hỏi nơi anh em cũng như nơi viện phụ một khả năng cốt yếu, tức là khả năng tìm kiếm điều tốt nhất, như câu 3 nói, và để được vậy thì phải cùng nhau đi tìm, phải chấp nhận rằng mình chưa biết được điều gì là tốt nhất. 

Vai trò của viện phụ là hỗ trợ tiến trình tìm kiếm, hướng nó tới đích, cho đến khi có được quyết định sau cùng. Tức là mang tới cho công việc thuộc lãnh vực tinh thần của cộng đoàn một bộ mặt, một nội dung xác định. Mỗi người không còn dè giữ nữa nhưng mạnh bạo đi tìm điều tốt nhất mà Thiên Chúa muốn cho ta. Đó thực là công việc của Giáo Hội, chứ không của riêng người nào.

B – Ngày 17.5  

Tiến trình đi tới quyết định trong cộng đoàn, như thánh Biển Đức nói đây, không có gì giống với một cuộc thảo luận dân chủ. Quả thực, đó không hề là việc tìm ý kiến của đa số, nhưng tìm phân định sự thật. Tiến trình phân định ấy đòi phải tôn trọng một số qui luật thánh Biển Đức nêu ra trong chương này.

Qui luật thứ nhất liên quan tới tính chất các quyết định phải có: những việc quan trọng. Không bàn luận tất cả, mà chỉ một số điểm được bàn theo cách này. Qui luật thứ hai liên quan tới phương pháp: cộng đoàn được triệu tập, giống như một tập họp phụng vụ. Có lời mời, có câu hỏi được nêu ra. Qui luật thứ ba là cốt yếu: mỗi người đều nêu ý kiến, dù ở thứ bậc nào hay khả năng ra sao. Không phải chỉ những người có thế giá trong cộng đoàn, như ta quen nói, mới được có ý kiến. Vì vấn đề không phải là tạo một quan điểm chung, nhưng, như thánh Biển Đức xác định, nhận ra ý Chúa.

Điều này giải thích tại sao sau cùng thì viện phụ cân nhắc các ý kiến rồi quyết định theo như ngài thấy là lợi ích hơn cả. Quả thực, đó là một tiến trình phân định của cả cộng đoàn để nghe được ý Chúa, chứ không phải một cuộc thảo luận để áp đặt ý kiến riêng.   

Để tiến trình này diễn ra tốt đẹp thì điều cần là mọi người đều lắng nghe và mỗi người khiêm tốn phát biểu. Nghĩa là mỗi người đơn sơ nói ra những gì mình nghĩ, nhưng không áp đặt ý mình bằng mọi giá, vì họ chỉ mong muốn lợi ích cho cộng đoàn. Đôi khi có thể có người bởi kiêu căng mà không chịu nói hay cố thủ ý kiến mình. Tìm kiếm lợi ích chung là việc làm theo hướng dẫn của Thánh Thần và đòi ta phải khiêm tốn thực sự, khiêm tốn để học hỏi nơi người khác, dù là người nhỏ nhất trong cộng đoàn.

C – Ngày 16.9

Trong chương này, thánh Biển Đức nói về cách ứng xử của anh em và của viện phụ. Về phía anh em, ngài yêu cầu mỗi người phát biểu ý kiến, dẫu là người già hay người trẻ, nhưng phát biểu cách khiêm tốn, không bảo thủ quan điểm riêng. Với viện phụ, thánh Biển Đức yêu cầu ngài trình bày vấn đề, lắng nghe anh em, rồi quyết định theo trách nhiệm của mình.

Nhưng quyết định này phải theo hai điều kiện như thánh Biển Đức nhấn mạnh với viện phụ. Thánh nhân nói về hai điều kiện đó bằng hai từ “provide” và “juste”, có nghĩa là “sáng suốt” và “công bằng”. “Provide” đến từ “providere” nghĩa là xem trước, cảm nhận trước, đoán trước. Viện phụ phải biết nhìn về tương lai. “Juste” nghĩa là “với công lý, công minh, chừng mực”, nhắm tới tình trạng hiện thời, tới cái đang có lúc này, tới việc thẩm định mọi sự cách công minh.

Để quyết định thì cần một mắt lượng giá hiện tại, một mắt hướng về tương lai. Và để viện phụ khỏi bị lầm lẫn, thánh Biển Đức khuyên ngài lắng nghe Chúa Thánh Thần, đấng thường nói qua người trẻ. Vậy, mọi quyết định phải rất thực tế, có thể thi hành được trong một tương lai nào đó, dưới tác động của Thần Khí Khôn Ngoan.

Nhưng để quyết định ấy mang lại hiệu quả thì nó phải được đón nhận dù không hợp với ý kiến riêng của ta. Do ý ngay lành ta có thể cho rằng quyết định ấy không đúng. Nhưng vấn đề không phải là ý ngay hoặc ý riêng, nhưng là đức tin, đức tin nảy sinh từ việc lắng nghe Thánh Thần, đấng xếp đặt mọi sự vì lợi ích của ta.

Ngày 17.1 – 18.5 – 17.9

 7 Vậy, trong mọi trường hợp, tất cả phải theo tu luật là thầy, chớ ai dám sai lệch. 8 Trong đan viện không ai được theo ước muốn của lòng mình. 9 Cũng đừng ai xấc xược tranh cãi với viện phụ, dẫu ở trong hay ngoài đan viện. 10 Nếu ai cố phạm, hãy chiếu tu luật mà trừng phạt. 11 Tuy nhiên, chính viện phụ phải thi hành mọi sự với lòng kính sợ Chúa, và tôn trọng tu luật. Ngài hãy biết chắc chắn rằng ngài sẽ phải trả lẽ cùng Thiên Chúa, Ðấng Thẩm Phán chí công về mọi quyết định của mình. 12 Còn những việc ít quan trọng, nhưng hữu ích cho đan viện, ngài chỉ cần tham khảo ý kiến các vị lão thành, 13 như có lời chép: “Làm gì con cũng nên bàn hỏi, để xong việc, con sẽ khỏi hối hận”.

Chú giải:

A – Ngày 17.1

“Trong đan viện không ai được theo ước muốn của lòng mình”. Nếu ta không làm chủ được những ước muốn nảy sinh và trào ra trong ta, thì có thể ta sẽ chiều theo những ước muốn đó. Thánh Biển Đức biết rõ lòng người, và ở đây ngài chỉ lặp lại kiểu nói đã được sử dụng lâu đời trong truyền thống đan tu: “ý riêng”.

Đây không phải chỉ là vấn đề của đan sĩ mà của cả viện phụ nữa. Nếu những câu 7,8,9 bảo đan sĩ không được sống ngoài tu luật (c.7), không được làm theo ý muốn của lòng mình (c.8) và không phản kháng (c.9), thì những câu tiếp theo nhắc nhở viện phụ phải tuân theo tu luật, kính sợ Chúa (c.11) và tham khảo ý kiến anh em (c.12). Đây không phải là vấn đề kỷ cương như thoạt tiên ta có thể nghĩ, nhưng đây là vấn đề thực sự thiêng liêng. Dù ở vị trí nào trong đan viện, đan sĩ không được chiều theo ý muốn của lòng mình.

Công việc phân định mà thánh Biển Đức đòi ta thực hiện thật không hề đơn giản. Ta thường lẫn lộn ước muốn riêng của mình với điều gì tốt cho ta và cho người khác, và chỉ nghe theo lời khuyên khi hợp với khuynh hướng của mình. Vậy bước đầu tiên là chấp nhận rằng mình không thấy. Cần điều trị cái nhìn để có thể thấy được. Việc điều trị này là một đề tài trọng yếu nơi các linh phụ. Nếu Thiên Chúa đã làm người là để ta có thể nhìn thấy ngài, và khi nhìn ngài cái nhìn của ta dần dần được biến đổi, vì sau cùng ta sẽ nên giống như đấng mà ta mến yêu ngắm nhìn. Chính khi nhìn ngắm Chúa Giêsu mà ta sẽ dần dần được giải thoát khỏi ý riêng hằng gây trở ngại cho ta, nhờ thế ta nhận ra được ý ngài.

B – Ngày 18.5  

“Trong đan viện không ai được theo ước muốn của lòng mình” (c.8). Chỉ thị này hoàn toàn trái ngược với việc tự do làm điều mình muốn. Đối với người đương thời và đôi khi đối với ta nữa, cái gì mình thích thì cái đó là tốt. Như vậy, ta chỉ sử dụng tự do theo ý riêng mình.

Không chỉ một mình thánh Biển Đức, mà tất cả truyền thống thiêng liêng, bắt nguồn từ Thánh Kinh, đều phản đối điều đó. Tự do của ta cần phải được giải thoát khỏi ước muốn và ý riêng. Chỉ khi dám từ bỏ những ước muốn, những kế hoặch của mình, lòng ta mới rộng mở để có được tự do đích thực.

Nhưng điều ấy không dễ mà hiểu được, vì nó trái ngược với thói thường. Và trong một thời đại bị mê hoặc bởi khoa phân tâm, điều ấy bị coi như một thứ khoái khổ. Ít người có can đảm tìm kiếm thứ tự do ấy.

Tuy nhiên, những cuộc giải phóng thời danh của nhân loại đã một phần nào là hình ảnh, tuy bất toàn, của cuộc giải phóng nội tâm. Chỉ người nào chấp nhận cực nhọc và tuân theo những qui luật khắt khe của cuộc leo núi mới hưởng được niềm vui khi trèo lên tới đỉnh. Ai muốn thưởng thức đầy đủ khi chơi một tác phẩm của nhạc sĩ thời danh nào đó, lại không phải mất cả trăm giờ để tập luyện trước sao? Muốn đạt được tự do nội tâm ta cũng phải vượt qua biển đỏ, qua những vùng sa mạc cằn cỗi của lòng ta. Và chính Chúa sẽ dẫn dắt ta trong cuộc vượt qua này.

C – Ngày 17.9

Theo thánh Biển Đức, đối với anh em hay đối với viện phụ, tu luật được ban hành như con đường đưa tới sự sống, trái ngược với điều ngài gọi là “voluntas proprii cordis” được dịch là  “ước muốn của lòng mình”. Trong từ la tinh “voluntas” có một ý phụ không thấy rõ trong từ “ước muốn”. Ước muốn là một sức mạnh tác động trên con tim ta, nó có thể hướng về điều tốt hay điều xấu. Trái lại, từ “voluntas” đòi phải có sự ưng thuận của con người để giúp cho ước muốn được bền bỉ.

Ước muốn thuộc cơ cấu của bản tính con người, nó dựa trên kinh nghiệm về một thiếu vắng nào đó. Thực chất nó là vô thưởng vô phạt. Nó tốt hay xấu thì tùy theo đối tượng nó hướng tới. Theo thánh Augustinô và các linh phụ Tây Phương, đề tài về ước muốn được liên kết với đề tài về hình ảnh và sự giống Thiên Chúa nơi con người. Ta được dựng nên cho Thiên Chúa: “Chúa đã dựng chúng con cho Chúa, và lòng chúng con khắc khoải mãi bao lâu chưa được ở yên trong Ngài” (Th. Augustinô).

Vấn đề là ta không nhận ra ngay được khuynh hướng nền tảng đó nơi bản thân mình. Ta cứ lòng vòng quanh bao nhiêu sự, mà quên mất cả mình, cả ơn gọi sâu xa của mình. Chính trong bối cảnh này mà ta phải hiểu ý nghĩa của đoạn tu luật hôm nay. Vai trò của tu luật là hướng sự ưng thuận của ta trở lại với một ước muốn đang có trong ta nhưng bị che khuất, bằng cách hướng ta ra khỏi những ước muốn ta cảm thấy nơi mình nhưng lại khiến ta xa cách mình. Chấp nhận đi theo tu luật là đi trên con đường dẫn tới sự thống nhất nội tâm, để tìm kiếm ước muốn duy nhất khiến cho con người trở nên cao cả.

Chương 4

NHỮNG KHÍ CỤ LÀM VIỆC LÀNH

Ngày 18.1 – 19.5 – 18.9

 l Trước tiên, kính mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực. 2 Thứ đến, thương yêu người lân cận như chính mình. 3 Không giết người. 4 Không ngoại tình. 5 Không trộm cắp. 6 Không tham lam. 7 Không làm chứng gian. 8 Tôn trọng mọi người. 9 Không làm cho người khác điều ta không muốn họ làm cho ta. 10 Bỏ mình để theo Chúa Kitô. 11 Sửa trị thân xác. 12 Không ham mê khoái lạc. 13 Yêu thích chay tịnh. 14 Nâng đỡ người nghèo. 15 Mặc cho người không áo. 16 Thăm viếng bệnh nhân. 17 Chôn cất kẻ chết. 18 Cứu giúp kẻ hoạn nạn. 19 An ủi người sầu khổ. 20 Xa lánh việc đời. 21 Không yêu mến gì hơn Chúa Kitô.

Chú giải:

A – Ngày 18.1

Sách Sáng thế nói: “Thiên Chúa phán… và đã xẩy ra như vậy” (St 1,11). Nơi Thiên Chúa không có ngắt quãng giữa lời nói và việc làm. Nói tức là làm, cả hai chỉ là một. Khi đọc lại toàn bộ Thánh Kinh ta có thể nhận thấy khoảng cách ngày càng xa nơi con người giữa lời Chúa nói và việc họ làm.

Mọi xung đột giữa Chúa Giêsu và những người pharisiêu có thể tóm lại trong câu ngài bảo: “Họ nói mà không làm”. Thánh Phaolô lặp lại nhận xét đó trong thư Rôma: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Như thế, cái khổ thực sự của con người hệ tại ở sự mất cân đối giữa lời nói và hành động. Đó là nguồn gốc sinh ra nỗi khắc khoải sâu xa nhất nơi ta.

Chính trong bối cảnh này mà ta phải đọc và suy tư về chương 4 của tu luật. Trước hết không phải như một bản liệt kê các điều luật để tuân giữ, nhưng như lời nhắc nhở về sự xâu xé làm biến dạng cuộc sống ta: ta nói nhưng lại không làm. Từ kinh nghiệm ban đầu của kitô giáo, con người vừa ý thức được sự mỏng dòn và nỗi cùng khổ của thân phận mình vừa cảm nhận được bàn tay Chúa Kitô đưa ra để cứu thoát mình.

Ai không còn nhận ra được sự chênh lệch giữa lời nói và việc làm của mình, hay viện lẽ là Thiên Chúa nhân từ, sẽ không hiểu được điều thánh Biển Đức muốn nói ở đây. Thực vậy, chính ý thức về sự chênh lệch đó trong cuộc sống ta sẽ là nguồn phát sinh và động lực cho mọi ơn gọi đan tu. Các linh phụ sa mạc đã hiểu như thế, và những cách ngôn của các ngài là giải đáp cho yêu cầu của người môn đệ: “Thưa viện phụ, xin nói cho con một lời để con được cứu” khi thực hành lời đó.

B – Ngày 19.5

Đời đan tu bắt nguồn từ hai tình yêu, hai ưu tiên được thánh Biển Đức nói tới trong đoạn tu luật này. Ưu tiên thứ nhất được nêu lên ở đầu và cuối đoạn, đó là ưu tiên dành cho Chúa. Ở câu 1: “Trước tiên, hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực” và ở câu 21: “Không yêu mến gì hơn Chúa Kitô”. Giữa hai câu này, thánh Biển Đức còn khai triển một tình yêu khác nữa, một ưu tiên khác: yêu mến tha nhân.

Câu 2 tiếp theo câu 1 cách hợp lý: “Sau đó, yêu thương người lân cận như chính mình”. Tiếp theo nữa là một loạt những hành động yêu thương, theo hai hướng khác nhau: những điều cấm làm và những điều phải làm.

Yêu thương người lân cận trước hết là tránh đổ lên họ điều dữ chất chứa trong lòng ta: ghen tương, oán thù, bạo lực. Không giết người, không tham lam, không làm chứng dối. Tình yêu bắt đầu bằng việc chế ngự nhu cầu thống trị, chiếm đoạt, khiến ta muốn lợi dụng người khác để thỏa mãn những xung động và ước muốn của ta. Nhưng tình yêu còn đi xa hơn, tới người nghèo, người không áo mặc, người đau ốm, người sầu khổ, người mắc hoạn nạn và cả người chết nữa.

Như vậy, giữa lòng mến Chúa và lòng yêu tha nhân có mối liên hệ mật thiết không thể bị tách rời. Đó là tất cả Phúc Âm, một Phúc Âm mà ta phải không ngừng đọc đi đọc lại để biết được cách mình phải sống.

C – Ngày 18.9

Bằng mấy câu trong phần đầu chương nói về “dụng cụ làm việc lành”, thánh Biển Đức làm một tuyển tập Phúc Âm, như một bản tóm lược Kinh Thánh, bắt đầu bằng câu Chúa Giêsu trả lời ông kinh sư hỏi ngài “giới luật nào lớn nhất?”: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là giới răn lớn nhất, giới răn thứ nhất. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng: “Hãy yêu mến người lân cận như chính mình ngươi”.

Tất cả những dụng cụ khác tiếp theo dường như chỉ là câu trả lời cho thắc nảy sinh nơi tâm hồn mọi đan sĩ: “Nhưng mến Chúa và yêu người lân cận như thế nào?” Vì không gì huyền nhiệm hơn tình yêu, lúc trào dâng tràn ngập lòng người lúc lại suy giảm, khác chi thủy triều lên xuống. Như lời sách Nhã ca: chẳng ai mua được tình yêu. Và tuy thế tình yêu sẽ tàn lụi, hao mòn, chảy tan trong cát, nếu không được thể hiện nơi cuộc sống hằng ngày. Tình yêu cũng gần giống như cầu nguyện: nếu nó không biến đổi con người nó đã lôi cuốn, nếu nó không dẫn đưa người ấy đi xa hơn, xa hơn mãi, thì sau cùng nó sẽ giảm sút và tiêu tan.

Các dụng cụ làm việc lành chỉ là phản ảnh của cái mâu thuẫn mà thánh Biển Đức đã có kinh nghiệm: nếu không lớn lên, tình yêu sẽ giảm sút, khô héo đi và chết rụi, tới nỗi ta có cảm tưởng đã xây dựng đời mình trên ảo tưởng, trên cát bụi. Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm: “Ai nghe các giới răn mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát. Gió vừa thổi tới đã làm nó sụp đổ”.

Nói “lạy Chúa, lạy Chúa” thôi thì không đủ. Và nếu những việc lành này đôi khi có khó khăn, bó buộc và cả đến xem ra không thực hiện nổi, thì Thiên Chúa cũng đã chuẩn bị cho ta để ta đem ra thực hành, trong khi để cho tình yêu đưa ta vượt qua khỏi những giới hạn của ta.

Ngày 19.1 – 20.5 – 19.9

 22 Không thỏa cơn giận. 23 Không tích lòng thù oán. 24 Không thủ mưu gian. 25 Không chúc bình an giả dối. 26 Không bỏ mất lòng bác ái. 27 Không thề kẻo bội thề. 28 Nói thật ngoài miệng như có trong lòng. 29 Không lấy ác báo ác. 30 Không lăng nhục ai. Còn điều người ta lăng nhục mình thì kiên nhẫn chịu dựng. 31 Yêu thương địch thù. 32 Không nguyền rủa kẻ nguyền rủa ta, nhưng chúc lành cho họ thì hơn. 33 Vui chịu bách hại vì công lý. 34 Không kiêu căng. 35 Không rượu chè. 36 Không mê ăn. 37 Không mê ngủ. 38 Không biếng nhác. 39 Không kêu ca lẩm bẩm. 40 Không gièm pha. 41 Hy vọng nơi Thiên Chúa. 42 Thấy gì tốt nơi mình thì quy về Chúa, chứ không gán cho mình. 43 Còn điều gì xấu thì luôn nhìn nhận là do mình làm và quy trách cho mình.

Chú giải:

A – Ngày 19.1

Đối với Thiên Chúa, nói và làm chỉ là một. Với ta thì không phải thế. Như đã lưu ý ở đoạn tu luật của ngày hôm qua, Thánh Kinh là biên bản ghi nhận sự chênh lệch càng ngày càng lớn giữa lời nói và việc làm. Tu luật thánh Biển Đức hướng ta đến việc phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi ta, được thể hiện bằng cách thực thì Lời Chúa.

Nhưng đối thánh Biển Đức, con đường trở về với Thiên Chúa khởi đầu bằng việc giữ mình cho khỏi điều xấu. Trước khi bước vào con đường hành thiện: “làm cho người khác điều mình muốn họ làm cho mình”, thánh Biển Đức yêu cầu đan sĩ “đừng làm cho người khác điều ta không muốn họ làm cho ta” (c.9). Như vậy, con đường tình yêu, con đường trở về với Thiên Chúa khởi đầu bằng việc giữ mình cho khỏi điều dữ, như ta nhận thấy trong đoạn luật này.

Nếu sự dữ là vắng bóng sự thiện, một sự khiếm khuyết, thì con đường trở về với sự thiện phải đi qua việc giữ mình khỏi những gì hủy hoại, những sai lạc, khiến cho cuộc sống con người trở nên cằn cỗi. Làm điều tốt khởi đầu bằng cách tránh làm điều xấu.

Việc đó xem ra quá sơ đẳng khiến ta tự hỏi tại sao thánh Biển Đức còn phải nhắc lại trong một bản luật dành cho các đan sĩ. Có thực sự đáng ngạc nhiên không? Chỉ cần đọc tiểu sử thánh Biển Đức do thánh Grêgôriô viết ta sẽ hiểu. Một số đan sĩ không những chỉ lăng mạ ngài mà còn tìm cách đầu độc ngài nữa. Như thế, ngài cũng đã phải giáp mặt với mầu nhiệm của Giuđa, của phản bội. Ngài biết rằng điều đáng ngạc nhiên không phải là sự dữ nhưng là sự lành. Ngài biết rằng điều làm nên phép lạ đó là “người không lỗi lời hứa và cho vay không đặt lãi”, như Thánh Vịnh nói, chứ không phải ngược lại. Ngài hiểu rằng tình thương và lòng trung tín là phép lạ đích thực. Chính điều đó làm ta phải ngạc nhiên.

B – Ngày 20.5

Chương về “những dụng làm việc lành” có thể làm ta ngạc nhiên, và một bản liệt kê dài dòng như thế có lẽ khiến ta khó chịu. Đọc mãi thành quen nên có lẽ ta không còn nghe được thánh Biển Đức muốn nói gì nữa. Tuy nhiên, nếu để ý ta sẽ thấy mỗi câu trong chuỗi những dụng cụ đó khác nào như một câu hỏi thánh Biển Đức nêu lên cho từng người chúng ta.

Thực vậy, thánh nhân tóm gọn những điều ngài đã nói vào trong hai câu 42 và 43: đó là phân định xem trong cuộc sống hằng ngày ta hướng về phía nào. Về phía Thiên Chúa hay phía ích kỷ của ta? Ta cứ tưởng đã dâng hiến Chúa tất cả, nhưng sau khi đọc những “dụng cụ làm việc lành” ta mới hay là không phải vậy.

Vì muốn giúp ta ý thức hơn về mình mà thói lệ cho ta hai lần xét mình mỗi ngày, sau kinh trưa và sau kinh tối. Những phút ngắn ngủi đó là lời mời gọi ta thành khẩn nhìn lại ngày sống của mình dưới ánh sáng Phúc Âm. Khi vượt biển, thỉnh thoảng hoa tiêu phải coi lại bản đồ và la bàn để tránh đụng phải đá ngầm. Hai khoảng thời gian ngắn ngủi trong ngày để xét mình cũng có ý nghĩa và tầm quan trọng như thế: tĩnh lặng để nhận định xem ta đã sống theo tinh thần nào suốt buổi sáng, buổi chiều, và cả ngày. Trong cuộc hải trình thiêng liêng, điều này còn quan trọng hơn mọi sinh hoạt khác của ta, vì nó liên quan đến cả cuộc đời. Và nếu điều đó đúng cho mỗi cá nhân thì thiết tưởng cũng đúng cho cộng đoàn nữa.

C – Ngày 19.9

Trong một loạt những cảnh báo tiêu cực, thánh Biển Đức thêm vào bốn câu có tính cách như là những nhắc nhở đến Lời Chúa trong Phúc Âm: “Nói thật ngoài miệng như có trong lòng” (c.28); “yêu thương kẻ thù” (c.31); “chịu bách hại vì lẽ công chính” (c.33); và sau cùng “đặt hy vọng nơi Thiên Chúa” (c.41).

Điều thánh Biển Đức muốn tạo lập qua những cảnh báo và nhắc nhở đó, chính là thái độ cơ bản, nguồn phát sinh cảm nghiệm thiêng liêng trong đời sống đan tu. Ta có thể tóm gọn trong công thức gồm ba thành phần như sau: yêu mình, yêu người, yêu Chúa.

Yêu mình qua việc tìm kiếm sự thống nhất nội tâm. Hữu thể ta bị hư hỏng vì tội lỗi khiến cho lời nói và con tim không còn hòa hợp với nhau nữa, nên nó phải được phục hồi, được tái tạo, đổi mới, theo ánh sáng sự thật.

Yêu người phải trải qua thử thách, đó là yêu kẻ thù, yêu kẻ muốn làm hại ta. Đây cũng là phục hồi thân xác Chúa Kitô bị tan nát vì tội lỗi của con người.

Sau cùng, yêu Chúa qua việc phục hưng đức tin, là thái độ cơ bản của đan sĩ, như thánh Phaolô quả quyết “mọi sự đều giúp ích cho người yêu mến Chúa”.

Ngày 20.1 – 21.5 – 20.9

 44 Sợ ngày phán xét. 45 Kinh khiếp hoả ngục. 46 Hết lòng khao khát sự sống vĩnh cửu. 47 Ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết. 48 Canh chừng hành động của mình trong từng giây phút. 49  Xác tín Chúa nhìn ta mọi nơi. 50  Đập tan ngay vào Chúa Kitô những tà ý phát khởi trong lòng, rồi bộc lộ với vị linh hướng. 51 Canh giữ miệng khỏi lời xấu xa hay ác độc. 52 Không ham nói nhiều. 53 Không nói chuyện phù phiếm diễu cợt. 54 Không ham cười nhiều hoặc cười ầm ĩ. 55 Thích nghe đọc sách thánh. 56 Siêng năng cầu nguyện. 57 Hằng ngày, trong giờ cầu nguyện,  khóc lóc than van, xưng thú cùng Chúa mọi lỗi lầm quá khứ. 58 Rồi sửa chữa những lỗi lầm ấy. 59 Không thỏa mãn những ham muốn xác thịt. 60 Gớm ghét ý riêng. 61 Vâng lời viện phụ trong mọi điều, cho dù ngài có ngôn hành bất nhất – mong đừng có như vậy – lúc ấy hãy nhớ lệnh Chúa truyền: “Điều họ nói, các con hãy làm; điều họ làm, các con chớ theo”. 62 Không muốn người ta gọi mình là thánh khi chưa thật sự thánh; nhưng phải thánh trước đã để lời người ta nói được xác thực.

Chú giải:

A – Ngày 20.1

         Sợ hãi, ước mong. Có lẽ hai từ đó đã tóm lược cả đoạn luật này. Hẳn là tình yêu xua đuổi sợ hãi, như thánh Gioan nói. Nhưng ai trong ta dám cho rằng mình đã yêu cách hoàn hảo? Có thứ sợ rất lành mạnh, đôi khi lúc đầu có thể giống như nhút nhát hay quị lụy, nhưng sẽ mau chóng trở thành nỗi sợ vì yêu mến.

Thoạt tiên, nỗi sợ ấy giống như là sợ làm sai, sợ bị bắt, sợ bị lừa. Một nỗi sợ có tính cách nô lệ. Nhưng nếu có thêm tình yêu, nỗi sợ ấy sẽ dần dần nhường chỗ cho một nỗi sợ khác, sợ không biết hiến mình trọn vẹn, sợ không biết phải nói sao cho đúng, sợ không yêu thương cách chân thành.

Bước chuyển biến từ nỗi sợ cách nô lệ sang nỗi sợ vì yêu mến không xẩy ra tức khắc. Đôi khi, nếu chỉ nhìn từ bên ngoài, cả hai giống nhau tới độ ta không thấy được sự khác biệt giữa chúng. Tuy nhiên, ta đều có thể quan sát thấy nơi anh em mình, nhất là nơi các vị cao niên, bước chuyển biến đó đang hình thành, dù đương sự không nhận ra.

Điều gì đã giúp cho sự biến chuyển ấy, tác động ấy của ơn thánh xẩy ra trong tâm hồn con người? Có lẽ chỉ là một điều rất đơn giản, rất nhỏ bé, nhưng lại đảo lộn cái nhìn của ta. Người trong cuộc không nhận thấy. Điều đó diễn ra qua những cái nhỏ mọn nhất của cuộc sống hằng ngày. Có thể nói rằng ơn thánh hoạt động khi mà, trước một yêu cầu  nào đó, điều ta nghĩ đến trước hết không còn phải là bản thân mình nữa, nhưng là lợi ích, nhu cầu, nỗi khổ hay niềm vui của người khác. Tóm lại, khi ta từ bỏ chính mình là lúc bắt đầu có nỗi sợ vì yêu mến.

B – Ngày 21.5

Trong đoạn này ta thấy có ba chiều kích về thời gian. Trước hết, thời hiện tại ở câu 50: “Những tà ý phát khởi trong lòng, hãy đập tan ngay vào Chúa Kitô”. Tiếp theo là thời quá khứ ở câu 57: “Hằng ngày trong giờ cầu nguyện hãy khóc lóc than van xưng thú cùng Chúa mọi lỗi lầm quá khứ”. Sau cùng, thời tương lai ở câu 62: “Không muốn người ta gọi là thánh khi chưa thật sự thánh”.Ba câu trên đây đặt ta trong tương quan với Chúa và với thời gian, vì theo thánh Biển Đức, việc hoán cải của đan sĩ không phải chỉ là việc quá khứ: “tôi đã hoán cải”.

Thực vậy, với lòng nhiệt thành ban đầu, các dụng cụ làm việc lành có thể xem ra nhẹ nhàng, đôi khi còn chưa đủ nữa. Không thiếu người, ít ra trong thời gian đầu đời đan tu, nghĩ rằng như thế chẳng có gì là đáng sợ cả. Nhưng niềm phấn khởi thủa ban đầu ấy đã mau chóng lụi tàn theo thời gian. Tuy vậy, với thánh Biển Đức, thời gian không cản trở nhưng hỗ trợ ta, giúp ta tránh được ảo tưởng và làm cho ta thêm hy vọng.

Chẳng có chi đáng sợ khi bị vỡ mộng hay cảm thấy ươn ái nặng nề. Vì nhận thức được mình bất toàn là một hồng ân Chúa ban, bởi lẽ khi ấy và chỉ khi ấy ta mới có thể từng ngày, từng giờ và đôi khi từng phút cảm nghiệm được rằng có Chúa nâng đỡ ta, rằng không có ngài ta chẳng làm được gì cả. Ta cũng nghiệm được rằng cùng với Chúa ta có thể chuyển núi dời non, bắt đầu từ ngọn núi nặng nề nhất là chính bản thân ta.

C – Ngày 20.9

Giọng điệu của đoạn luật này có vẻ như hơi lạ. Ta có thể tóm lại trong hai động từ: sợ hãi và ước muốn. Hai động từ này bao hàm phần lớn các động cơ nơi con người. Ta hành động, nói năng, nghĩ tưởng, cảm súc vì sợ hãi hay vì ước muốn. Nhưng vấn đề là liệu cái sợ của ta có cơ sở không, ước muốn của ta có chính đáng không.

Thánh Biển Đức trao cho ta các dụng cụ làm việc lành để giúp ta phân định những nỗi sợ và ước muốn của mình. Vì, trái với điều ta có thể nghĩ, ta cũng phải học để biết sợ hãi và ước muốn cho đúng cách. Quả thực, có những điều ta sợ nhưng lại chẳng đáng sợ, và có những điều ta ước muốn nhưng lại không tốt.

Vậy phải tập cho biết sợ hãi và ước muốn cách chính xác. Chẳng hạn như ta thường sợ bị chê cười, bị mất mặt, nhưng lại không để ý tới tác hại do những lời nói không tốt hay không đúng lúc đúng chỗ. Ta sợ bị bắt lỗi, nhưng lại quên rằng ước muốn xấu sẽ hủy hoại tâm hồn mình.

Ta rất thường là nạn nhân của những nỗi sợ và ước muốn của mình. Rồi ta buông tay mà nói: tôi có vậy thôi, chẳng biết sao được! Ta phải chấp nhận một thứ định mệnh nào đó chăng? Hoặc là, như thánh Biển Đức mời gọi, ta sẵn sàng xem xét lại những nỗi sợ và những ước muốn của mình, vì ta ý thức rằng Chúa Kitô cũng đã giải thoát ta khỏi những điều đó.

Ngày 21.1 – 22.5 – 21.9

 63 Hằng ngày lấy việc làm mà chu toàn huấn lệnh Chúa. 64 Yêu thích khiết tịnh. 65 Không ghét ai. 66 Không ghen tương, 67 không phân bì. 68 Không ưa tranh tụng. 69 Tránh tự kiêu. 70 Kính trọng người già, 71 yêu thương người trẻ. 72 Vì lòng mến Chúa Kitô, cầu nguyện cho kẻ thù nghịch. 73 Làm hoà với người bất thuận trước khi mặt trời lặn. 74 Và không bao giờ thất vọng về lòng thương xót Chúa.

75 Đó là những khí cụ trong nghệ thuật thiêng liêng. 76 Nếu ngày đêm ta không ngừng đem ra sử dụng, và đến ngày chung thẩm ta hoàn lại cho Chúa, thì Chúa sẽ ban cho ta phần thưởng chính Người đã hứa: 77 “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người”. 78 Còn cơ xưởng nơi ta cần mẫn sử dụng các khí cụ ấy, chính là nội vi đan viện và việc bền đỗ trong cộng đoàn.

Chú giải:

A – Ngày 21.1

Có thể có nhiều động lực thúc đẩy ta trong suốt cuộc đời đan tu, nhưng chỉ có một động lực duy nhất có khả năng giúp ta “cầu nguyện cho kẻ thù” như thánh Biển Đức nói ở câu 72, đó là “lòng yêu mến Chúa Kitô”. Quả thực, có một làn ranh, qua làn ranh đó thì thiện chí cao nhất, nhẫn nại kiên cường nhất, lòng thương cảm tha thiết nhất cũng vẫn không đủ. Bên kia làn ranh đó chỉ có tình yêu mới đáng kể mà thôi.

Đạt tới được tình yêu này đôi khi giống như là đi vào hỏa ngục vậy. Vì đó là con đương từ bỏ thực sự mà những lý lẽ dù hay tới đâu, những tình cảm dù cao thượng chừng nào cũng không đứng vững được. Cái đầu và con tim không còn tác dụng gì, mà chỉ là trống rỗng, có cũng như không. Sau cùng thì ta sẽ mỏi mòn kiệt quệ và chịu đựng hết nổi. Nhưng cũng nhờ vậy mà ta nhận ra được thực tế. Tất cả đều sụp đổ.

Tất cả chăng? Không hẳn vậy, vì khi Thiên Chúa cho ta cảm nghiệm được sự sụp đổ nơi mình, thì không phải là để khiến ta hóa thành tro bụi. Cái đổ vỡ ấy thực ra chỉ là cái vỏ bọc ngoài, có nguy cơ khiến ta náu ẩn yên hàn trong đó mà không còn muốn đi xa hơn nữa. Origênê nói rằng mối nguy lớn nhất rình rập cuộc sống thiêng liêng của ta đó là sự thỏa mãn, sự đầy đủ. Đó là cảm giác mình đã đạt ý nguyện, đã có được địa vị vững chắc, có chỗ đứng yên ổn dưới ánh mặt trời.

Rủi thay, hoặc phúc thay cho ta, Thiên Chúa không bằng lòng với điều đó. Ngài biết ta lớn hơn lòng ta. Vì thế ngài đẩy ta vào cảnh rối loạn để nếu ta chấp nhận bị rơi vào, ta có thể cảm nghiệm được thế nào là sống vì yêu mến Chúa Kitô. Trong tình trạng trái ngược ấy tất cả đều có thể, ngay cả cầu nguyện cho kẻ thù.

B – Ngày 22.5

Nghệ thuật thiêng liêng đòi phải có các dụng cụ (c.75) và một cơ xưởng (c78) là đan viện hay chính xác hơn là “nội vi đan viện và việc bền đỗ trong cộng đoàn”. Cơ xưởng này có hai chiều kích, đó là chiều kích địa lý: nội vi đan viện, và chiều kích nhân bản: việc bền đỗ trong cộng đoàn.

Trong tư tưởng thánh Biển Đức, sự liên kết giữa hai chiều kích hay hai yếu tố này là điều thiết yếu. Cơ xưởng ấy không chỉ là một nơi chốn nhưng cũng là những người anh em nữa. Nơi Chúa gọi ta đến và những người anh em Chúa ban cho ta là môi trường để ta rèn luyện nghệ thuật thiêng liêng cho tinh tế hơn. Thực vậy, việc thay đổi chỗ ở sẽ chẳng ích lợi gì cho nghệ thuật này, nếu không phải chỉ là để tránh giáp mặt với thực tế. Ta tuyệt đối cần cả hai thứ bền đỗ, bền đỗ tại nơi chốn và bền đỗ trong cộng đoàn, để có thể thực hiện nghệ thuật thiêng liêng.

Chỉ kiên trì sống nơi một mảnh đất và trong những tương quan huynh đệ với một cộng đoàn ta mới có thể thực hiện những ước vọng sâu xa của mình. Cứ thay đổi chỗ ở, đời ta cũng sẽ mãi mãi chỉ hời hợt bên ngoài thôi. Vững chí ở lại, mặc dầu những khó khăn, những thất bại, những giới hạn, những hiểu lầm, đó là điều kiện để cuộc sống ta có chiều sâu. Không thứ cây nào mọc trên mặt đường cả.

C – Ngày 21.9

Trái với điều mà đôi khi ta nghĩ, các dụng cụ làm việc lành không phải là những thứ ta phải thực hiện trước khi gia nhập đời đan tu, trước khi bước vào con đường đời sống nội tâm. Thực vậy, ở câu 76, thánh Biển Đức quả quyết ta phải “sử dụng những dụng cụ ấy ngày đêm không ngừng”, và “hoàn lại cho Chúa vào ngày chung thẩm”. Như vậy, những dụng cụ ấy cần thiết cho cả cuộc đời ta.

Nếu đôi khi ta thấy những dụng cụ trong nghệ thuật thiêng liêng quá đơn sơ, không đủ thiêng liêng hay huyền nhiệm, chính là vì ta còn có quá nhiều ảo tưởng về mình. Các linh phụ sa mạc đã hiểu rõ điều ấy khi khiêm tốn nhắc lại lời một vị cao niên nói trước khi qua đời: “Tôi bắt đầu mỗi ngày”.

Vì nét đặc trưng của tiến bộ thiêng liêng không phải là hài lòng với đoạn đường đã đi, tự hào vì nó, nhưng ý thức rằng ta đã đi từ bao năm mà ta chẳng tiến tới gì cả, rằng ta chưa thực sự bắt đầu. Quả vậy, trong lãnh vực đời sống thiêng liêng, kinh nghiệm đích thực không căn cứ theo ngôn từ, nhưng theo ý thức sâu sắc về sự dốt nát của ta.

Với thánh Biển Đức, dấu hiệu đích thực của đời sống thiêng liêng là mỗi ngày khiêm tốn sử dụng lại những dụng cụ rất đơn sơ giản dị của nghệ thuật thiêng liêng, chứ không cho rằng chúng chẳng còn hữu dụng nữa. Trong đời sống đan tu, phải lâu dài, rất lâu dài, đôi khi cả một đời, để sau cùng mới nhận ra rằng đã đến giờ khởi sự!

Chương 5

ĐỨC VÂNG PHỤC

Ngày 22.1 – 23.5 – 22.9

1 Vâng phục không chậm trễ là bước đầu của đức khiêm tốn. 2 Đó là nhân đức của những người không quý chuộng gì hơn Chúa Kitô. 3 Vì nghĩa vụ thánh mà họ đã khấn hứa, hay vì sợ hoả ngục hoặc mong ước sự sống muôn đời, 4 nên lệnh trên vừa ban ra, họ coi như từ Thiên Chúa, và thi hành tức khắc không chút do dự. 5 Chính vì thế mà Chúa đã phán: “Tai vừa nghe, chúng đã vâng lời Ta”. 6 Với những người giảng dạy, Chúa còn nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy”.7 Những người như thế họ bỏ ngay công việc cá nhân và từ khước ý riêng, 8 lập tức những gì đang cầm trong tay và công việc còn dang dở họ cũng bỏ để nhanh chân thi hành lệnh trên, 9 đến nỗi lệnh thầy truyền và việc môn đệ thi hành đều hoàn tất mau lẹ như cả hai cùng xong một trật, vì cả thầy lẫn môn đệ cùng có lòng kính sợ Chúa.

10 Đó là những kẻ đang hăm hở tiến vào sự sống muôn đời. 11 Vì thế họ dành lấy con đường hẹp mà Chúa đã nói: “Đường dẫn đến sự sống là đường hẹp”. 12 Bởi lẽ họ không còn sống theo ý mình, hay chiều theo dục vọng và sở thích riêng, nhưng bước đi theo phán quyết và mệnh lệnh của người khác. Sống trong đan viện, họ chỉ mong tùng phục viện phụ. 13 Những người như thế chắc chắn đã theo đúng lời Chúa nói: “Ta không đến để làm theo ý Ta, nhưng là theo ý Đấng đã sai Ta”.

Chú giải:

A – Ngày 22.1

          Cấu trúc của đoạn văn này rất hay. Thánh Biển Đức bắt đầu bằng cách nêu lên một châm ngôn, ở câu 1: “Bậc thứ nhất đức khiêm nhường là vâng lời không chậm trễ”. Rồi trong các câu 2 và 3 ngài đưa ra lý do. Sau cùng, từ câu 4 đến câu 9, ngài mô tả thế nào là vâng lời không chậm trễ, và sau cùng, từ câu 10 đến câu 13, ngài nhắc lại những lý do của việc vâng lời này.

Điều đáng ngạc nhiên là thánh Biển Đức chỉ giữ lại một trong những lý do ngài đã nêu ra. Thực vậy, nếu từ ban đầu ngài nói: “Không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô” (c.2), thì điều đó là do “nghĩa vụ thánh đã khấn hứa”, do “sợ hỏa ngục” hay vì “vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu” (c.3). Ở cuối đoạn này ngài chỉ còn giữ lại “lòng khao khát được sống đời đời” khiến ta “noi gương Chúa” (c.10 và c.13). “Sự sợ hỏa ngục” hay những nghĩa vụ do lời khấn đan tu đã tác động ta một lúc nào đó thì nay không còn nữa.

Như vậy, việc vâng lời bắt nguồn từ khát vọng sâu xa muốn được vào nước Thiên Chúa, một khát vọng đã đưa tất cả vào trật tự. Điều giúp ta vâng lời, điều khiến ta dễ dàng vâng lời và muốn vâng lời đó là thang giá trị đã thay đổi, lòng ta đã thay đổi cách sâu xa nhất. Nếu không, ta sẽ luôn luôn tìm được lý do để làm điều mình muốn và để khỏi phải vâng lời.

Vậy là vâng lời trở thành vâng lời thực sự. Không phải là suy phục ý muốn của con người, nhưng là noi gương Chúa Kitô, là đi theo Chúa Kitô. Trong đời sống đan tu, ta không vâng lời vì sợ hay vì tư lợi hoặc để được yên thân, nhưng để trở nên như Chúa Kitô, để được biến đổi nên giống ngài.

B – Ngày 23.5

 “Họ không sống theo ý mình, không chiều theo dục vọng và ý riêng” (c.12), đó là những đan sĩ “không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô” (c.2). Vì thế, “sống trong đan viện, họ chỉ mong tùng phục viện phụ” (c.12). Nếu ta vào đan viện để sống theo một tu luật và dưới quyền một viện phụ, chính là vì ta ý thức, đôi khi rất mơ hồ, rằng thỏa mãn những ước muốn, những dục vọng của mình sẽ đẩy ta xa khỏi hạnh phúc là Chúa Kitô.

Ý thức nhưng cũng còn phải sống điều mình ý thức nữa. Vì thế, trong đan viện, kinh nghiệm sống mang một giá trị rất lớn. Kinh nghiệm này được gồm tóm trong một nhận xét rất đơn giản. Khi làm theo ý riêng, làm điều mình muốn, thực hiện ước muốn của mình để được vui thỏa, chứ không phải để tìm hạnh phúc, thì ta sẽ chỉ thấy trống rỗng mà thôi. Khi bỏ mất Chúa Kitô, ta sẽ mất hết. Lúc ấy, sự cay đắng và bực bội sẽ trào lên từ nơi sâu thẳm của bản thân ta.

Trong đời sống đan tu, kinh nghiệm cơ bản trên đây là điều cốt yếu. Bao lâu chưa có kinh nghiệm ấy, ta sẽ vâng lời vì bị bó buộc, ta nghe theo vì không thể làm cách khác, và ta lén lút phàn nàn, hoặc ta sẽ sống hai mặt. Nhưng ngày nào đột nhiên nhận rằng không có Chúa sẽ chẳng còn thú vị gì, khi ấy ta sẽ sẵn sàng thực tâm chọn đi vào đường vâng phục. Bởi vì chỉ con đường này mới giải thoát được ta. Chỉ con đường này mới dẫn ta tới hạnh phúc. Vì đó là đường Chúa Giêsu đã đi.

C – Ngày 22.9:

Với thánh Biển Đức, khiêm nhường và vâng phục liên kết mật thiết và cốt yếu với nhau. Vâng phục là ngưỡng cửa phải bước qua, là đoạn đường phải đi để tới được khiêm nhường. Thoạt tiên, ta có thể nghĩ rằng thánh Biển Đức quan niệm khiêm nhường như là một cách triệt để từ bỏ ý riêng, từ bỏ mọi tư tưởng cá nhân, để chiều theo tư tưởng người khác. Khi ấy, đời sống đan tu sẽ có thể coi như hình thức cao nhất của việc tha hoá, của việc chối bỏ nhân vị. Tôi nghĩ không phải thế.

Có lẽ trước hết phải bắt đầu từ ý tưởng khiêm nhường. Khiêm nhường chính là sự thật. Không đặt cơ sở trên cái giả bộ, con đường khiêm tốn khởi đi từ nhận thức cốt yếu này: con người thật thì vượt xa hẳn những gì chúng ta nhìn thấy. Khoa tâm lý hay phân tâm học có vạch ra được những sức mạnh thâm sâu nhất nơi nhân vị chúng ta, thì cũng mới chỉ đụng tới cái vỏ của con người chúng ta thôi. Mầu nhiệm của hữu thể, của bản thân ta vẫn còn nguyên đó.

Như vậy, ta chỉ có thể đón nhận chứ không thể nào nắm được sự thật về mình. Và vì thế chỉ duy con đường vâng phục mới đưa ta tới con người thật của ta được. Trong khi cởi bỏ ta khỏi chính mình, ơn vâng phục giúp ta nhận thức, như một tia chớp, rằng sự thật về ta đó là ta được yêu thương trong chính hiện trạng của ta. Cái khó nhất không phải là yêu, vì con tim được dựng để yêu. Không, cái khó nhất chính là được yêu, đặc biệt khó mà ý thức nổi mình được yêu theo hiện trạng của mình. Khi ấy ta thường không thể chấp nhận mình, không thể yêu được mình.

Vâng phục là sống phó thác, để nhờ đó ta có thể nhận ra con người thật của mình, để khiêm tốn yêu chính bản thân ta đã được giải thoát khỏi mọi giả vờ giả bộ, khỏi mọi ảo tưởng cho mình là cái gì, trong khi mình còn vô cùng lớn lao hơn thế.

Ngày 23.1 – 24.5 – 23.9

14 Nhưng đức vâng phục này chỉ được Chúa vui nhận và vừa lòng mọi người, khi lệnh truyền được thi hành mà không hấp tấp, không chậm trễ, không lãnh đạm, hoặc cằn nhằn phản đối. 15 Vì vâng lời bề trên là vâng lời Thiên Chúa. Bởi chính Người đã nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy”. 16 Vậy môn đệ phải vâng lời với tất cả hảo tâm, vì “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”. 17 Còn nếu môn đệ vâng lời miễn cưỡng và phàn nàn, không những ngoài miệng mà cả trong lòng, 18 thì dù có làm đúng lệnh truyền vẫn không thể đẹp lòng Chúa, vì Người thấu suốt tận đáy lòng kẻ kêu trách. 19 Vâng lời như thế không được ơn ích gì, lại liều mình chuốc lấy hình phạt dành cho hạng người kêu trách, nếu không sửa mình và đền tội.

Chú giải:

A – Ngày 23.1

Với thánh Biển Đức, vâng lời thôi chưa đủ, nhưng còn phải vâng lời cách vui vẻ. Đó là một đòi hỏi vượt quá sức ta. Thực vậy, vui thế nào được khi điều người ta bảo làm ta lại không thích? Làm sao cho người khác vui vẻ mà vâng lời?

Trước hết phải vượt qua được hai cái bẫy của việc vâng lời. Cái bẫy thứ nhất là vâng lời vì không thể làm cách khác được, vì từ chối thì không an tâm. Vâng lời như thế phần nào có tính cách hình thức để cho được yên thân, nhưng chẳng giúp ta nên tốt lành hơn. Cái bẫy thứ hai là vâng lời cách miễn cưỡng. Có những người hóa bệnh vì phải vâng lời, và luôn làm trái với lệnh truyền, hay ít là tỏ ra cực chẳng đã thì phải vâng khi không thực hiện lệnh truyền đến nơi đến chốn.

Ta đều đã có kinh nghiệm về một trong những kiểu vâng lời bệnh hoạn này. Đó là một kinh nghiệm cần phải có trước khi khám phá ra thế nào là vâng lời vui vẻ như thánh Biển Đức nói, nghĩa là vâng lời không phải vì sợ bề trên buồn hay vì muốn làm vui lòng bề trên. Nhưng làm sao để có thể vui vẻ mà vâng lời được?

Thánh Biển Đức trả lời cho ta bằng những trích dẫn rất ngắn từ Tân Ước: Lc 10,16: “Ai nghe các con là nghe Thầy”, và 2 Cr 9,7: “Thiên Chúa yêu thích người nào vui vẻ mà cho”. Với thánh Biển Đức thì, một cách nào đó, vui vẻ mà cho bao giờ cũng là một việc tạ ơn vì điều mình đã lãnh nhận, như lãnh nhận lời Chúa Kitô (ai nghe các con là nghe Thầy), lãnh nhận được tình yêu của Thiên Chúa (Thiên Chúa yêu thích người nào vui vẻ mà cho). Chỉ ai biết lãnh nhận lời đó như lời Chúa Kitô sẽ  được tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và sẽ có thể vui vẻ mà cho. Với thánh Biển Đức, vâng lời là lắng nghe Chúa Kitô suốt cả cuộc đời.

B – Ngày 24.5

“Ai nghe các con là nghe Thầy”. Trong việc vâng lời, cần phải biết nghe. Không phải chỉ nghe viện phụ hay những người ngài trao trách nhiệm trong cộng đoàn, nhưng còn hơn thế nữa. Quả thực, khi nói về vâng lời, ta đặc biệt nghĩ đến ý nghĩa thực tiễn: trong đan viện cần phải có tôn ti trật tự. Hẳn là đúng như vậy, nhưng đó lại không phải là điều thánh Biển Đức nhắm tới trước hết.

Khi được lệnh làm gì nhân danh đức vâng lời, phản ứng đầu tiên là ta nghĩ ngay tới hai điều: người ra lệnh và lệnh được ra. Nếu đang gặp khó khăn với người ra lệnh, nếu không thích họ, ta sẽ khó thực hiện lệnh truyền. Và nếu lệnh truyền làm ta khó chịu, ta sẽ tìm mọi lý do, với mọi lời biện minh có thể nghĩ ra được để tránh né.

Ta quá biết, cách phản ứng như thế sẽ chẳng đi tới đâu cả. Mầu nhiệm vâng phục như thánh Biển Đức gợi lên (“Ai nghe các con là nghe Thầy”) đã không được đả động tới. Tại sao? Có lẽ bởi vì trong phản ứng trên đây trung tâm điểm được đề cao là tôi và ước muốn, sở thích, tình cảm của tôi mới đáng kể. Tôi đã không lắng nghe.

Quả thực, mầu nhiệm vâng phục chính là mầu nhiệm của việc mở tai lòng để nghe tiếng của Vị Thầy nội tâm. Qua các sự việc xẩy ra, ngài đang dậy ta một điều cốt yếu nào đó. Thánh Biển Đức nhắc lại: “Ai nghe các con là nghe Thầy”. Điều quan trọng không phải là vâng lời bề trên nào, trong trường hợp nào, nhưng là khả năng mở tai lòng để nghe lời Thánh Linh mời gọi. Khi ấy trung tâm sẽ thay đổi, như thánh Phaolô nói: “Không phải tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chính ngài mới ở chỗ nhất, chứ không phải tôi nữa.

C – Ngày 23.9

 “Ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”, thánh Biển Đức kết luận như thế sau khi kể ra những dấu hiệu của sự vâng lời đích thực, làm Chúa vui lòng. Những dấu hiệu khác là không hấp tấp, tức là điềm tĩnh; không chậm trễ hay lãnh đạm, tức là phải biết tự chủ; không cằn nhằn phản đối, tức là với hảo tâm. Trong những dấu hiệu này ta có thể nhận ra được các dấu hiệu thánh Phaolô nêu lên khi nói về hoa trái của Thánh Thần: “Niềm vui, an bình, hảo tâm, tự chủ”. Như vậy, thánh Biển Đức đã đặt sự vâng lời dưới tác động của Thánh Thần. Trong việc vâng lời tương quan của ta với viện phụ không quan trọng bằng tương quan với Thiên Chúa. Tại sao vậy?

Vì ở câu 15 thánh Biển Đức quả quyết: “Vâng lời bề trên chính là vâng lời Chúa”. Như vậy, thánh nhân đứng trong logic của mầu nhiệm Nhập Thể, được ghi đậm nét trên linh đạo của tu luật: không có lời lẽ khoa trương hay những tâm tình đẹp đẽ, nhưng chỉ có hành động. Sự vâng lời sẽ biểu lộ trong cuộc sống cụ thể nếu ta thực sự theo Chúa Kitô, khi đành lòng bỏ mất sự sống mình để nhận lại từ nơi ngài.

Lời kết khiến ta hơi ngạc nhiên: chính khi sống lời khấn cách cụ thể mà ta sẽ đón nhận được Thánh Thần. Người ta biết được là ta có Thánh Thần khi thấy những hoa trái của ngài nơi ta: niềm vui, an bình, hảo tâm, tự chủ…

Tất cả dự án của thánh Biển Đức là đưa ta trở lại với sự thống nhất đã bị tội lỗi phá đổ: sao cho lời nói am hợp với hành động, dối trá nhường chỗ cho sự thật. Như thế, vâng phục đúng là trường đào tạo và dẫn đưa ta đến tự do.

Chương 6

SỰ IM LẶNG

Ngày 24.1 – 25.5 – 24.9

 1 Ta hãy thi hành theo lời ngôn sứ: “Tôi đã nói mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm, nên miệng tôi quyết ngậm tăm, tôi câm lặng làm thinh chẳng hé môi, im lặng cả những điều hay điều tốt”. 2 Qua đó, vị ngôn sứ tỏ cho ta thấy, vì quí trọng sự im lặng, mà đôi khi phải làm thinh cả những lời lành; phương chi đối với những chuyện hư từ, càng phải tránh để khỏi bị phạt vì tội.

3 Vì sự im lặng quan trọng như thế, nên ngay cả những môn đệ hoàn hảo, cũng ít khi được phép nói những lời lành thánh và xây dựng, 4 vì có lời chép: “Nói nhiều không tránh khỏi tội”. 5 Và nơi khác: “Sống chết ở cả đầu lưỡi”.6 Thực ra, nói năng dạy dỗ là việc của thầy, còn môn đệ thì im lặng mà nghe.

7 Bởi đó, nếu phải thưa trình bề trên việc gì, hãy trình bày với tất cả lòng khiêm tốn, kính cẩn và tùng phục. 8 Còn những chuyện bông đùa, những lời phù phiếm khôi hài, bất cứ ở đâu và lúc nào, cha đều lên án và cha không hề cho phép môn đệ mở miệng nói những lời như thế.

Chú giải:

A – Ngày 24.1

Với thánh Biển Đức, đây chưa phải là yêu thích im lặng, nhưng là giữ miệng không nói. Ngài nhấn mạnh điều đó khi trích dẫn ba câu Thánh Kinh: Tv 38,2-3; Tv 10,19; Tv18,21. Ngài nêu rõ tương quan giữa lời nói và sự im lặng bằng hai nhóm từ ở câu 3: “sự quan trọng của im lặng” và “được phép nói”. Và ở câu 7, ngài không đặt lời nói đối nghịch với sự im lặng nhưng với lòng khiêm tốn: “Nếu phải thưa trình bề trên việc gì, hãy trình bày với tất cả lòng khiêm tốn và kính cẩn tùng phục”.

Tôi muốn trở lại với sự đối nghịch cơ bản mà thánh Biển Đức diễn tả bằng những từ “sự quan trọng của im lặng” và “được phép nói”. Từ “sự quan trọng” trong tiếng la tinh diễn tả sức nặng, đó là cái trọng tâm, cái mà hữu thể hướng chiều về. Còn từ “được phép” nêu lên ý tưởng về nhượng bộ.

Cơ bản thì tôi nghĩ rằng im lặng, đúng ra là việc không nói trước, diễn tả thái độ của người môn đệ lắng nghe lời nội tâm. Đây là nói về chất lượng của sự chú ý, của sự thức tỉnh nơi trí năng nội tâm rộng mở để nghe mọi lời “từ miệng Thiên Chúa phán ra”.

Chính vì thế thánh Biển Đức không đặt lời nói đối nghịch với im lặng, nhưng với lòng khiêm tốn. Ta từ chối nghe, vì ta tưởng mình nắm được chân lý rồi, đó là kiêu ngạo; trong khi chân lý là một Đấng Khác, là chính Chúa Kitô. Điều thánh Biển Đức không thể chấp nhận đó là từ chối nghe Lời.

B – Ngày 25.5

“Vì sự im lặng quan trọng như thế”, vì sự quan trọng của im lặng (c.3). Từ la tinh “gravitas” trong nguyên bản diễn tả ý tưởng về sức nặng, theo nghĩa một “con người nặng ký”, có sức mạnh và có giá. Như vậy, đối với thánh Biển Đức, im lặng ban cho ta sức nặng, nó trái ngược với tính nhẹ dạ, với cái hão huyền của lời nói biến tan trong gió.

Để một lời nói có sức nặng, nó phải thấm nhuần sự im lặng, im lặng lắng nghe và im lặng suy tư. Lời nói ấy cần thiết phải chín mùi trong im lặng, phải thốt ra từ cõi sâu thẳm của lòng người để mang lại được hoa trái. Nếu không thì chỉ là những lời hư từ, những lời bộc phát hời hợt. Thánh Biển Đức dứt khoát loại trừ những lời thuộc loại đó, như ngài nói ở câu cuối cùng của chương này.

Thời nay người ta thường lẫn lộn giữa sự thật và tính chân thành hay bộc phát. Ta cứ tưởng những lời thoạt nảy ra trong trí đều nói lên được những gì ta suy nghĩ. Ta nói ra điều ta chợt nghĩ, dù chẳng bao lâu sau đó ta có phải nói ngược lại. Ta cứ nói tự nhiên bộc trực mà chẳng hề cố gắng giữ cho lời nói lắng đọng và chín mùi từ trong nội tâm. Như thế ta sẽ chỉ quanh quẩn ở bề mặt của bản thân mình.

Đó là lý do khiến truyền thống đan tu khuyến khích các đan sĩ “trau dồi sự im lặng”, cố gắng tập giữ im lặng. Việc này không hề cản trở ta bộc lộ con người thật của mình, nhưng trái lại sẽ giúp ta có cơ may thăng tiến.

Im lặng là điều kiện tuyệt đối cần cho đời sống nội tâm, đời sống thiêng liêng, đời sống trong Thần Khí. Im lặng là điều kiện để sống đời đan tu của ta cách đích thực.

C – Ngày 24.9

Lời trích dẫn Tv 38,2-3 để mở đầu chương nói về im lặng khiến ta hơi ngạc nhiên. Thực vậy, đối với tác giả Thánh Vịnh, ước muốn được giữ im lặng không phải là do một quyết định tốt, nhưng do một cảm nghiệm đau đớn trong nội tâm: cảm thấy bị xỉ nhục vì tội lỗi mình. Khi tưởng mình nói những lời tốt lành, thì ông lại sửng sốt vì thấy mình phạm tội quả tang: ông muốn nói điều tốt nhưng lại xẩy ra cái xấu.

Bao nhiêu lần ta phải ngạc nhiên vì nói xấu người khác, khi mà ta chẳng hề có ý nói vậy. Khác nào lời nói tràn ra như trượt dốc mà ta không kiểm soát nổi. Có lẽ nhờ có kinh nghiệm thấm thía khi khám phá ra mình đã nói xấu, không khoan nhượng, dối trá mà thánh Biển Đức phải suy tư về sự im lặng.

Ngài thấy rằng không ai trong ta có thể thoát được lỗi lầm trong lời nói. Thánh Giacôbê đã có những lời nghiêm khắc về cái lưỡi, một miếng thịt nhỏ mà đốt cháy cả thế gian, gieo rắc rối loạn và hận thù. Thánh Biển Đức nhìn thấy nơi cái lưỡi một động lực đẩy ta đến chỗ chết mà ta không làm chủ được, không kiểm soát nổi.

Nhưng không chỉ quan sát và cho thấy điều đó thôi, ngài còn cống hiến ta một phương thế điều trị. Đó là im lặng. Không chỉ im lặng, nhưng im lặng để lắng nghe, như ngài bảo: “Môn đệ thì im lặng mà nghe”. Vì ông Thầy, ông Thầy nội tâm vẫn thầm thì trong cõi thâm sâu của lòng ta, và ta chỉ nghe được tiếng ngài nếu biết lắng tai lòng, giữ im lặng trước những ồn ào khiến ta phân tâm chia trí. Tội lỗi làm phân tán, chia ly, gây xáo trộn. Sự thiện hoạt động trong im lặng và bình an.

Bằng việc lắng nghe vị Thầy nội tâm, mỗi người chúng ta có thể làm cho cộng đoàn, cho đan viện thành một nơi an bình.

Chương 7

ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

Ngày 25.1 – 26.5 – 25.9

 l Thưa anh em, Thánh Kinh kêu gọi ta: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. 2 Nói thế, Thánh Kinh tỏ cho ta thấy mọi cách đưa mình lên đều là một thứ kiêu ngạo. 3 Đó là điều vị ngôn sứ tuyên bố tự đề phòng, khi nói: “Lòng con không dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi. Đường cao vọng chẳng đời nào bước. Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu”.4  “Nếu con không tự khiêm, lại muốn tự cao tự đại, thì sẽ ra sao? Như đứa trẻ bị dứt ra khỏi dòng sữa mẹ, Thiên Chúa cũng sẽ xử với hồn con như thế”.

Chú giải:

A – Ngày 25.1

         Cao và thấp là những chiều căn bản của khoa địa lý thiêng liêng, như ở trong và ở ngoài, đàng trước, đàng sau, hay bề sâu và bề mặt. Hành trình thiêng liêng cũng giống như một hải trình trong đó con tầu phải tìm ra đường khi nghiên cứu các hướng đi khác nhau. Bước tiến thiêng liêng diễn ra trong một loại không gian ba chiều, trong đó thời gian trở thành chiều thứ tư.

Nhưng khoa địa lý thiêng liêng có những qui luật riêng mà ta phải biết đến. Ở đầu chương 7 này, thánh Biển Đức nêu lên qui luật cơ bản: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”. Qui luật này có thể làm ta ngạc nhiên, vì đời sống đan tu được coi là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, tìm Đấng Tuyệt Đối, một khát mong nên hoàn thiện. Như vậy, rõ ràng là ta phải vươn lên.

Và quả thực là đúng như thế. Trong đời sống đan tu, ta bảo rằng mình đi tìm Chúa, nhưng ta lại thấy mình đứng trước những giới hạn nhỏ hẹp của mình. Ta tuyên bố những điều lớn lao lắm, nhưng lại vấp phải một chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống chung. Cứ mỗi khi ta tìm cách vươn lên cao là lại gặp phải toàn những điều tầm thường nhỏ mọn.

Đúng như vậy, và thật là hay. Điều đó chẳng vô ích tí nào. Mà hoàn toàn ngược lại. Vì cốt yếu là phải khám phá ra rằng những khát vọng lớn lao dẫn đưa ta tới Chúa luôn luôn phải trải qua một cuộc tự hủy. Những khát vọng ấy phải được thanh tẩy khỏi tất cả những gì thúc đẩy ta đi tìm mình, tìm hư danh, tự phụ. Chúng cần phải được thanh tẩy trong lò luyện cuộc đời, để trở nên vô cùng tốt đẹp hơn cho ta. Điều đó ta không tự mình mà thực hiện được, nhưng phải nhờ hồng ân của Thiên Chúa. Vậy ta hãy khát vọng lên lao, nhưng bằng cách đi qua vực thẳm.

B – Ngày 26.5

Với một chút tinh ý và thẳng thắn, khi nhìn cách ta ứng xử, người ta dễ nhận ra rằng ta chưa thật sự ăn ở khiêm nhường. Phần lớn những xung đột mà viện phụ phải giải quyết giữa anh em với nhau là những tranh cãi để tìm chỗ nhất chứ không phải chỗ rốt hết. Mỗi người đều muốn quan điểm, ý kiến và lợi ích của mình là nhất, dù có làm kẻ khác bị thiệt thòi.

Như vậy, khiêm nhường đâu phải là chuyện tự nhiên. Ta nên hiểu điều đó, vì chỉ ai biết mình mắc bệnh kiêu căng mới có thể được chữa lành. Thánh Biển Đức không ngần ngại khi tuyên bố ở câu 4: “Nếu con không tự khiêm, lại muốn tự cao tự đại thì sẽ ra sao?” Cả chương 7 này sẽ cho ta thấy điều gì xẩy ra.

Để diễn tả con đường khiêm tốn, thánh Biển Đức dùng hình ảnh em bé bị dứt khỏi sữa mẹ, như ngài nói tiếp ở câu 4: “Như đứa trẻ bị dứt ra khỏi dòng sữa mẹ, Chúa cũng xử với hồn con như thế”. Con đường khiêm tốn cũng giống như con đường cai sữa, qua đó đứa trẻ dần dần bị tước bỏ mất cái đã giúp cho nó sống, đã khiến nó vui thích và được an toàn.

Con đường khiêm tốn là con đường mà ai đi trên đó cũng sẽ cảm thấy thiếu thốn, khắc khoải, đơn độc. Trên con đường này tự nhiên ta thấy muốn nổi loạn, chán ngán, sợ hãi, tức giận. Và có lẽ gặp những khó khăn, thử thách chính là dấu cho hay ta đang thực sự đi trên đường khiêm tốn. Vì khi ấy và chỉ khi ấy ta mới có thể cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên Chúa biểu đương nơi sự yếu hèn.

C – Ngày 25.9

Những lời dẫn vào chương nói về đức khiêm nhường có vẻ rất lạ thường, gần như hết sức khẩn trương. Những tiếng “Thánh Kinh kêu gọi ta” thật là đột ngột. Và thánh Biển Đức còn trưng dẫn sách thánh để nêu bật tầm quan trọng của vấn đề. Ta có thể thắc mắc tại sao thánh nhân lại mở đầu chương này như thế. Để đánh thức độc giả đang thiếp ngủ thăng? Có thể. Nhưng nhất là vì đây là cốt lõi của đời sống đan tu.

Khiêm nhường giống như ông vua dùng năng lực kỳ diệu của mình mà biến đổi tất cả những gì ông chạm tới thành vàng. Nhưng, nếu thiếu khiêm nhường tất cả sẽ trở nên nặng nề, hư hỏng và không thể chịu được. Thánh Biển Đức còn đi xa hơn khi quả quyết kiêu ngạo, thiếu khiêm nhường sẽ khiến ta bị loại bỏ: “Chúa sẽ đối xử với hồn con như đứa trẻ bị dứt ra khỏi dòng sữa mẹ”. Quả thật, khiêm nhường có khả năng giúp ta hội nhập vào một cộng đoàn đan tu, trong khi đó kiêu ngạo khiến ta bị loại trừ, bị đẩy ra bên lề, bị ruồng bỏ.

Nhưng tại sao? Khi cảm thấy bị ruồng bỏ, ta nghĩ rằng người khác từ chối đón nhận ta, họ khinh thị ta. Điều này không phải luôn luôn sai, ngay cả chuyện đó còn có thể là một việc cố ý, dù trong một cộng đoàn đan tu đi nữa. Làm sao có thể buộc tội một người là kiêu ngạo khi họ cảm thấy mình là nạn nhân chứ? Điều ấy xem ra hoàn toàn bất công.

Khi còn là một đan sĩ trẻ, ngày kia tôi bị một anh em chế diễu trước mặt mọi người. Tôi tức điên lên, sẵn sàng trả đũa khi có dịp. Và tôi nhớ đã đi qua đi lại trên con đường trước hang đá Đức Mẹ tới cả chục lần, vừa đi vừa ấm ức. Nhưng đến lần áp chót, tôi thấy có một cảm giác lạ trào lên tự đáy lòng, giống như một niềm vui, với lời trấn an như sau: “Phải rồi, con đáng cười nhạo thế đó, nhưng Mẹ vẫn ở với con mà”. Thế là tôi đi thêm một lần nữa để cám ơn Đức Mẹ. Nếu có khi nào anh em bị như tôi, xin cứ thử làm như tôi đi rồi sẽ thấy. Bảo đảm là anh em sẽ thành công.

Ngày 26.1 – 27.5 – 26.9

 5 Vì vậy, thưa anh em, nếu muốn đạt tới đỉnh của đức khiêm nhường trọn hảo và mau vươn tới cõi trời cao bằng cuộc sống khiêm tốn ở đời này, 6 ta hãy lấy việc làm dựng thành cái thang mà leo lên, như chiếc thang đã hiện ra cho ông Giacóp trong giấc mộng. Trên thang đó ông thấy các thiên thần lên lên xuống xuống. 7 Theo cha, lên xuống như thế chắc chắn phải hiểu: tự cao là đi xuống, tự hạ là đi lên. Chiếc thang được dựng lên đó chính là đời tạm này. Nhờ lòng khiêm tốn, nó sẽ được Chúa nâng lên tận trời cao. 9 Hai đọc thang, theo cha hiểu chính là xác và hồn ta. Trên đó tiếng gọi thần linh đã sắp sẵn nhiều bậc khiêm nhường và kỷ luật để ta leo lên.

Chú giải:

A – Ngày 26.1

Hình ảnh thánh Biển Đức dùng để nói về cây thang có vẻ hơi đặc biệt. Hai thành của cây thang là xác và hồn ta, và những thanh ngang nối kết hai thành lại là những bậc khiêm nhường. Điều ấy có nghĩa là khiêm nhường liên hệ đến tâm hồn, nhưng cũng liên hệ đến thân xác nữa.

Khi còn là đan sĩ trẻ, tôi nhớ ngày nọ thầy quản lý công việc tới sở làm phô mai. Thấy một anh em đang sơn cây thang đã bị mọt nhiều, thầy bắt anh đi lấy cưa rồi cưa bỏ hết các thanh ngang của cây thang. Sau cùng, cây thang không còn nữa nhưng chỉ còn hai khúc gỗ vô dụng.

Để giúp ta leo lên thang, các thanh ngang phải cùng nhau giữ chắc hai thành dọc của cây thang. Với thánh Biển Đức, lòng khiêm tốn hệ tại ở việc tìm lại được sự liên kết sâu xa giữa hồn và xác. Chỉ người nào đã tìm lại được sự thống nhất sâu xa nơi mình mới có thể đi lên với Chúa.

Như vậy, khiêm tốn là môi trường thiêng liêng, ở đó bản thân người đan sĩ dần dần trở nên thống nhất. Khiêm tốn liên hệ đến tâm hồn, trái tim, nhưng cũng đến cả thân xác cùng với những xúc cảm, ước muốn và nhận thức của nó nữa. Người khiêm tốn là người có khả năng nghe được lòng mình, nhưng cũng có khả năng tôn trọng thân xác mình.

Thiết tưởng một trong những mâu thuẫn lớn của đời sống thiêng liêng đó là thay vì làm cho ta thành thiên thần, những tạo vật phi thể xác, đời sống ấy dẫn đưa ta tới chỗ trở nên trọn vẹn là những con người.

B – Ngày 27.5

Cây thang khiêm nhường đây là thế nào? Trong đoạn tu luật này thánh Biển Đức giải thích bằng hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất lấy từ Thánh Kinh, đó là giấc mộng của Giacóp về cây thang ở sách Sáng Thế (ch. 28); hình ảnh thứ hai biểu lộ qua cái nhìn có tính nhân loại học của thánh Biển Đức. Hai hình ảnh này bổ túc cho nhau.

Như sách Sáng Thế tường thuật, sau khi chiếm đoạt quyền trưởng nam của anh mình, Giacóp đã dùng mưu để được cha là ông Isaac chúc lành cho. Khi chạy trốn, Giacóp dừng chân để nghỉ đêm và ông đã làm mơ. Ông thấy một cây thang dựng lên giữa trời và đất, có các thiên thần lên xuống trên đó (St 28,12). Rồi bản văn kể tiếp: “Này đây, có Chúa đứng trước mặt ông” (St 28,13), và Chúa nhắc lại với ông lời đã hứa với ông Abraham và ông Isaac.

Khi nhắc lại sự kiện này, thánh Biển Đức gợi lên hai bối cảnh: bối cảnh về việc ông Giacóp chạy trốn vì thấy mình bất lực, yếu đuối, và bối cảnh về lời Thiên Chúa hứa cho ông được nên cao cả và thịnh vượng. Như vậy, đối với thánh Biển Đức, đặc điểm thứ nhất của khiêm tốn là cảm nghiệm sự yếu đuối của mình, cảm nghiệm này trở nên cơ sở cho niềm hy vọng, cho lời hứa, khi mọi sự đều sụp đổ quanh ta và trong ta.

Hình ảnh thứ hai được diễn tả nơi câu 9: hai thành thang là xác và hồn, giữa hai thành ấy Chúa đã đặt các bậc để ta trèo lên. Như vậy, khiêm tốn có tương quan với công việc thống nhất nội tâm. Khiêm tốn đòi ta phải trở nên người hơn: khiêm tốn là dấu hiệu chứng tỏ ta không còn đóng vai thiên thần hay con vật nữa. 

Như hai hình ảnh trên đây cho thấy, khiêm tốn là một ơn gọi, một con đường trở về với Thiên Chúa và với chính mình. Một con đường đi tìm lại tương quan với Chúa, với mình và với người khác.

C – Ngày 26.9

Chú giải về cây thang Giacóp, như thánh Biển Đức trình bày, được dựa trên trích dẫn Phúc Âm ở câu 1 của chương 7 này: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14.11). Câu này được nhắc tới ba lần trong Phúc Âm: ở Mt 23,12 và Lc 18,14 nhân dịp Chúa Giêsu chống đối người Pharisêu, và ở Lc 14,11 khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ chọn chỗ cuối để được nâng lên chỗ nhất.

Như vậy, khiêm nhường không chỉ là hạ mình xuống, nhưng hạ mình xuống để được nâng lên. Một cách nào đó, ở khiêm nhường là để cho được nên cao cả, để được ở chỗ nhất, bằng cách đi theo một con đường khác với con đường người đời vẫn đi.

Khiêm nhường đòi ta phải có cái nhìn khác. Khiêm nhường thay đổi thang giá trị của ta. Khiêm nhường đòi ta phải nhận ra đâu là sự cao cả đích thực, đâu là phẩm giá sâu xa nhất của ta. Chúa Giêsu khiển trách người Pharisêu vì họ tìm cho được nổi nang trước mặt người khác. Nhưng chỉ cái nhìn của Chúa mới giúp ta đạt tới được hữu thể đích thực của ta.

Người khiêm tốn là người không quan tâm đến cái nhìn của người khác nữa, vì họ đã biết sống trước cái nhìn của Chúa rồi. Họ không sống theo dáng vẻ bên ngoài nữa, nhưng theo con người thật của mình. Đó là những người mà truyền thống Nga gọi là những người điên trong Chúa Kitô. Họ đảo ngược bậc thang xã hội, bậc thang giá trị của thế gian để sống trước cái nhìn của Thiên Chúa.

Ngày 27.1  – 28.5 – 27.9

10 Vậy bậc khiêm nhường thứ nhất là luôn đặt trước mắt lòng kính sợ Chúa, chẳng bao giờ dám quên, 11 và hằng nhớ mọi điều Chúa truyền, không ngừng tâm niệm rằng những kẻ khinh thị Chúa sẽ bị phạt vì tội trong hoả ngục làm sao, còn kẻ kính sợ Chúa sẽ được phúc trường sinh Chúa sắm cho thế nào. 12 Trong mọi giây phút lo giữ mình khỏi tội lỗi và các nết hư do tư tưởng, miệng lưỡi, tay chân và ý riêng, cả đến những thèm muốn xác thịt. 13 Mỗi người hãy nhớ rằng từ trời cao Chúa luôn nhìn xem mình, và dù mình ở đâu, lúc nào và làm gì, Chúa đều nhìn thấy hết, lại có các thiên thần không ngừng tường trình lên Chúa. 14 Để chứng minh điều đó, vị ngôn sứ cho ta hay lúc nào Thiên Chúa cũng hiện diện trong tư tưởng ta. Ngài nói: “Chúa dò thấu lòng dạ ta”. 15 Lại rằng: “Chúa biết rõ tư tưởng con người”. 16 Ngôn sứ lại nói: “Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa”. 17 Và “Tư tưởng phàm nhân sẽ phơi bày trước mắt Chúa”.18 Muốn giữ mình khỏi những tư tưởng xấu xa, đan sĩ chân tu luôn tâm niệm: “Chỉ khi nào giữ mình khỏi tội, tôi mới được trong sạch trước nhan Chúa”.

Chú giải:

A – Ngày 27.1

Các bậc khiêm nhường không phải là những giai đoạn ta đi qua một lần là xong, như thể đi từ bậc thứ nhất tới bậc thứ hai. Thực ra, một cách nào đó, ta chẳng bao giờ đi hết được bậc thứ nhất. Nhưng chính khi sống bậc thứ nhất ta sẽ dần dần khám phá ra chiều kích thứ hai, thứ ba và thứ mười hai của bậc thứ nhất này. Như thế, các bậc khiêm nhường cũng giống như các mặt của một viên đá quí, mặt nọ phải cần đến mặt kia.

Chính vì thế, thánh Biển Đức đặt bậc khiêm nhường thứ nhất ở chỗ đầu tiên, như cửa đi vào. Và ta sẽ thấy bậc này hết sức phong phú, vì được chia ra để đọc và giải thích trong ba buổi. Đoạn văn của ngày hôm nay nêu lên cội rễ, nền tảng của đức khiêm nhường, đó là “sống trước sự hiện diện của Chúa”.

Như vậy, lòng khiêm nhường được xây dựng trên ý thức về một Đấng Khác đang ở trong cuộc sống của tôi, ngài nghĩ đến tôi, ngài nhìn xem tôi mọi lúc, ngài yêu thương tôi. Một Đấng Khác không vô tình lãnh đạm với những gì xẩy đến cho tôi, những gì tôi làm, nhưng ngài tin tưởng nơi tôi. Tôi không ở một mình.

Thánh Biển Đức diễn tả thực tại này bằng nhiều trưng dẫn Thánh Kinh để cho thấy rằng khiêm nhường là thành phần của mạc khải kitô giáo. Khiêm nhường khiến tôi kinh ngạc nhận ra rằng tôi không đơn độc, rằng đời tôi có gía trị, rằng một Đấng Khác đang chờ đợi nơi tôi một điều gì đó. Hay đúng hơn, ngài chờ đợi tôi trở thành một ai đó khi thoát ra khỏi cái vỏ sò bản ngã nhỏ hẹp của tôi. Vì chỉ cái nhìn của một Đấng Khác mới có thể giúp tôi một ngày nào đó đạt tới được ơn gọi làm người của tôi.

B – Ngày 28.5

Bậc thứ nhất đức khiêm nhường là ý thức rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa. Thánh Biển Đức mô tả điều đó khác nào như một cơn động đất thiêng liêng vậy. Từ nay ta không còn chỉ biết có mình với mình nữa. Một Đấng Khác đã xuất hiện trong nơi thâm sâu nhất của bản thân ta.

Để diễn tả nỗi kinh hoàng trước sự kiện này, thánh Biển Đức dùng những lời rất mạnh khiến ta nhớ lại câu thơ nổi tiếng của Victor Hugo: “Và mắt ngài nhìn Cain”. Con người cứ tưởng chỉ có một mình, xa khuất những cặp mắt tò mò, để sống cuộc sống hai mặt, bỗng nhận ra có Đấng Khác trong nơi thâm sâu của lòng mình! Một Đấng Khác “nhìn mình mọi lúc” (c.13), “dò thấu tâm can lòng dạ” (c.14), Đấng biết cả những tư tưởng sâu kín nhất của ta (c.14,15,16).

Bậc khiêm nhường thứ nhất này có vẻ thật là bi thảm: đan sĩ đã thấy mình bị thiêu đốt trong hỏa ngục (c.11). Kinh hoàng và sợ hãi pha trộn nhau. Ta bị lột mặt nạ, bị bóc trần, bị tước bỏ hết những gì xem ra có thể che đậy ta khỏi con mắt người khác. Như thể Thiên Chúa muốn xóa sạch hết những gì từ trước tới nay đã tạo nên nhân vị của ta. Nhưng có đúng vậy không?

Thật ra, điều gây đau đớn trong bậc thứ nhất này không phải là vì Thiên Chúa xuất hiện trong cõi sâu thẳm nhất của bản thân ta, nhưng là vì quả bóng kiêu căng mà ta gọi là cái “tôi” bị xẹp. Cái tôi giả tạo này đã khiến ta có cảm tưởng như mình hiện hữu. Khi Thiên Chúa hiện diện thì cái tôi giả tạo tan biến, chỉ còn lại thực tế buồn thảm gây ra do tính dối trá, hão huyền của ta. Nhưng đừng quên rằng đây mới là bậc thứ nhất, sự sụp đổ của cái tôi giả tạo chỉ là bước khởi đầu của khám phá kỳ diệu về bản thân ta dưới con mắt Thiên Chúa.

C – Ngày 27.9

Với thánh Biển Đức, bậc thứ nhất đức khiêm nhường hệ ở việc nhìn thực tại bằng cặp mắt khác. Những gì thánh nhân diễn tả trong những câu ta vừa nghe đòi ta phải nhìn một cách khác những gì xẩy đến cho ta, vì tự nhiên ta không nhìn sự vật theo cách này.

Bậc thứ nhất đức khiêm nhường đòi ta phải vượt qua cái bề mặt đập vào mắt ta, vượt qua cảm súc, để phân định được chiều sâu của những biến cố xẩy tới. Không phải hiển nhiên mà vượt qua được cảm giác thích thú hay chán ngán để đạt tới chiều kích “thần học” của thực tại.

Vì, “sống dưới cái nhìn của Chúa” trước hết có nghĩa là học cho biết đọc được những gì xẩy đến, những gì xẩy đến cho ta như Lời Chúa muốn nói với ta. Không còn vấn đề ta thích hay không thích nữa. Không phải là sống để chịu đựng những gì xẩy đến, và đau đớn vì cảm thấy mình bất lực. Không! Thánh Biển Đức mời gọi ta nhìn thực tại trong một chiều kích mới, chiều kích liên chủ thể.

Như vậy, những gì xẩy đến cho ta đều đi qua trước mắt Chúa. Ngài muốn lợi ích cho ta. Nhưng không phải lúc nào ta cũng hiểu được điều đó. Đôi khi ta còn có cảm tưởng như Chúa làm mọi sự để chống lại ta, để phá hoại ta. Như vậy, sống dưới cái nhìn của Chúa tức là sống mà không ngừng thắc mắc. Làm sao điều ấy lại có thể ích lợi cho tôi? Sống dưới cái nhìn của Chúa tức là chấp nhận sống theo một ý nghĩa vượt quá sự hiểu biết của ta, vượt xa ý nghĩa ta muốn có cho đời mình.

Ngày 28.1 – 29.5 – 28.9

19 Còn về ý riêng, Chúa cấm chúng ta chiều theo. Vì Thánh Kinh dạy rằng: “Ý riêng con, con hãy từ bỏ”. 20 Vả lại trong kinh Lạy Cha ta vẫn xin Chúa cho ý Ngài thực hiện nơi ta. 21 Vì thế, Thánh Kinh dạy ta đừng theo ý riêng là rất có lý, nếu ta lưu tâm đến lời Thánh Kinh: “Có những con đường người ta coi là ngay thẳng, mà cuối đường lại đưa xuống đáy hỏa ngục”. 22 Lại nhờ đó, ta tránh khỏi điều đã viết về những người chểnh mảng rằng: “Chúng đã ra đồi bại và ghê tởm trong ước muốn của chúng”. 23 Còn về những ham muốn xác thịt ta hãy xác tín rằng Chúa hằng ở trước mặt ta, như lời vị ngôn sứ đã thưa cùng Chúa: “Mọi ước muốn của con đều bày ra trước mắt Ngài”. 24 Thế nên ta phải cảnh giác những ước muốn xấu xa, vì cái chết rình chờ bên cửa lạc thú. 25 Bởi vậy, Thánh Kinh dạy rằng: “Con đừng chạy theo nhục dục”.

Chú giải:

A – Ngày 28.1

          Trong đoạn văn này của bậc khiêm nhường thứ nhất, thánh Biển Đức bàn đặc biệt về điều mà truyền thống thiêng liêng gọi là ý riêng. Ngài thiết lập mối tương quan giữa ba yếu tố căn bản của tinh thần con người: ý chí (c.19), ước muốn (c.23) và óc phân định (c.21). Động lực của ý chí chính là ước muốn. Như vậy, vấn đề là mức độ phân định ước muốn.

Ai có thể cho rằng mình đủ khả năng phân định xem ước muốn của mình hướng mình về Chúa hay về sự dữ? Làm sao biết được ước muốn của ta hướng ta tới điều thiện hay điều ác? Vốn mù tịt về bản thân mình, ta không có khả năng thấy rõ được những chuyện đó. Chính vì vậy, noi theo truyền thống đan tu, thánh Biển Đức chọn sự từ bỏ chính mình, bằng cách xa lánh ý riêng để đi vào đường vâng phục, như giai đoạn thứ nhất trong việc trở về với Thiên Chúa,

Vâng phục là tuyệt đối cần thiết, nếu ta mong muốn một ngày kia nhìn thấy rõ được lòng mình. Những phản ứng, những kháng cự, những sợ hãi của ta sẽ dậy ta nhiều hơn gấp bội những lời biện bạch để được làm điều mình muốn. Khi nhận ra nơi lòng mình sự cứng cỏi như dấu hiệu cho thấy ta đang dính bén với ý riêng, thay vì tìm cách biện hộ cho mình hay tố cáo người khác, thì đó là lúc ta dám nhìn vào điều đang xẩy ra, là lúc ta trở nên sáng suốt hơn một chút về mình.

Theo nghĩa đó, vâng phục là một ơn đặc biệt, vì nó giúp ta mở mắt ra để nhìn thấy mình cách rõ ràng hơn mọi thứ phân tích nào khác. Mà biết mình là cơ sở của khiêm tốn, vì khiêm tốn là sự thật. Có lẽ tôi phải theo ý nghĩa này khi giải thích chương 2, trong đó thánh Biển Đức nhắc cho viện phụ rằng ngài phải trả lẽ về sự vâng phục của những ai đã được giao phó cho ngài. Đôi khi thật là dễ dàng nếu để anh em làm theo ý riêng của họ. Điều đó tránh được những xung đột, nhưng lại chẳng giúp ích gì cho ai.

B – Ngày 29.5

Ta đã thấy bậc khiêm nhường thứ nhất thực sự gây nên một địa chấn thiêng liêng: đó là khám phá ra Thiên Chúa hiện diện trong ta. Sự hiện diện này khiến ta không còn chỉ biết có mình với mình nữa. Hậu quả của khám phá đó thật là đơn giản. Từ nay ta chỉ cần sống sao cho ý ta hợp với ý Chúa.

Đó là điều thánh Biển Đức diễn tả trong đoạn tu luật này. Bắt ý ta thuận theo ý Chúa là khởi đầu cuộc chiến thiêng liêng, một cuộc chiến bi thảm giữa ý riêng ta và ý muốn của Chúa, một cuộc đối đầu giữa hai ý muốn trái ngược nhau.

Như vậy, bậc khiêm nhường thứ nhất không chỉ là cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa nơi thâm sâu nhất của lòng ta, nhưng cũng là ý thức về một lựa chọn phải có, một lựa chọn triệt để và đau đớn. Như thánh Biển Đức nhận xét: ý muốn của ta không đi cùng chiều với ý muốn của Chúa. Và thánh nhân còn quả quyết rằng nó dẫn ta đi thẳng tới cái chết.

Sự hiện diện của Chúa trong đáy lòng và cuộc chiến nội tâm là hai nét đặc thù của bậc khiêm nhường thứ nhất. Nếu ta thường bị cám dỗ chán nản trước cuộc chiến nội tâm, thì thánh Biển Đức lại nhắc nhở ta phải vui mừng, vì đó là dấu ta đang thực sự dấn thân vào cuộc phiêu lưu thiêng liêng qua bậc khiêm nhường thứ nhất này.

C – Ngày 28.9

Hôm qua ta đã thấy rằng bậc khiêm nhường thứ nhất đòi ta phải thay đổi cái nhìn về những gì xẩy đến cho ta. Sống dưới cái nhìn của Chúa có nghĩa là sống đức tin: tin rằng trong mọi sự xẩy đến cho ta, Chúa muốn nói với ta một lời, ban cho ta một lời hứa. Hiệu quả đầu tiên của thái độ cơ bản này là ta dứt bỏ được phần nào những tình cảm riêng, những ước muốn riêng mà thánh Biển Đức gọi là ý riêng.

Kẻ thù lớn của đức khiêm nhường là ý riêng. Nhưng điều quan trọng là phải hiểu từ “ý riêng” theo đúng như truyền thống đan tu muốn hiểu. Đời đan tu không hủy diệt nhân vị, trái lại, có mục đích giúp cho nhân vị đích thực và sâu xa nhất của mỗi người trong chúng ta đạt tới mức trưởng thành đầy đủ.

Nhưng ý riêng lại hoàn toàn khác. Đó là một thứ bệnh tâm hồn khiến cho con người tự khép kín mình lại và quên mất rằng mình được dựng nên cho người khác, mình được dựng nên để yêu thương. Và tình yêu đòi hỏi ta phải ra khỏi mình, phải mở lòng ra cho những gì rộng lớn hơn cái thế giới nhỏ hẹp của mình.

Ta vẫn luôn luôn giáp mặt với thách đố này. Biết bao người trong ta đã chỉ tạo lập cho mình một cuộc sống nhỏ nhen, vừa với tầm mức nhỏ nhen của mình, và làm bộ như thể chẳng nghe thấy gì nếu có ai quan tâm nhắc nhở. Cuộc sống đan tu không có mục đích nào khác hơn là giúp ta thắng vượt khuynh hướng muốn khép kín, muốn nhốt mình trong ý riêng.

Ngày 29.1 – 30.5 – 29.9

 26 Vậy nếu con mắt Chúa hằng theo dõi người lành kẻ dữ 27 và từ trên cao, Chúa hằng quan sát con cái loài người xem có ai hiểu biết và tìm kiếm Chúa không, 28 nếu các thiên thần được ủy thác coi sóc ta ngày đêm tường trình lên Chúa mọi công việc ta làm, 29 thì, thưa anh em, mọi giờ phút ta phải cảnh giác, như vị ngôn sứ nói trong Thánh Vịnh, kẻo có lúc nào Chúa bắt gặp ta đang chiều theo sự dữ và trở thành vô dụng. 30 Giờ đây Chúa còn dung thứ vì ngài nhân từ và chờ ta hoán cải nên tốt hơn, kẻo mai ngày Chúa sẽ bảo ta: “Ngươi sống như thế mà Ta đã làm thinh”.

Chú giải:

A – Ngày 29.1

          Đoạn này tóm kết bậc thứ nhất đức khiêm nhường. Bậc thứ nhất này có hai mặt được thánh Biển Đức quảng diễn như sau: Trước hết đặt trước mắt lòng kính sợ Chúa và đừng bao giờ quên (c.10-18). Thứ hai là tránh theo ý riêng (c.19-23), điều này đã nói ở chương 5 về đức vâng lời. Phần tóm kết này nhắc lại điểm thứ nhất trong khi liên kết với điểm thứ hai, vì có mối liên hệ giữa việc tưởng nhớ đến Chúa và việc từ bỏ ý riêng, từ bỏ những ước muốn lôi kéo lòng người.

Trong đoạn tóm kết này, thánh Biển Đức dựa theo giáo thuyết của Cassianô về linh hồn con người. Cassianô so sánh linh hồn con người với một cái cối xay lúa không thể ngừng quay. Nếu không cho nó những tư tưởng tốt để nó xay, nó sẽ xay tất cả những gì thâm nhập vào nó, những ham muốn xác thịt, những tư tưởng về hư danh, về ý riêng.

Đó là bậc thứ nhất, là thách đố thứ nhất trên đường về với Chúa. Đây là lúc phải xay những thứ hạt tốt. Đó là lý do khiến các linh phụ và sau là Cassianô nghĩ rằng phải cung cấp hạt tốt cho cái cối xay ấy, phải cho nó những thứ hạt tốt để nó xay.

Vì thế các ngài coi lectio divina là việc quan trọng theo hai hình thức: đọc Thánh Kinh, và đọc thuộc lòng các Thánh Vịnh, các lời kinh được dệt bằng những sự kiện trong Thánh Kinh, như kinh Mân côi chẳng hạn. Điều này dần dần sẽ tạo nên trong ta một thói quen thầm thĩ đọc Lời Chúa, giúp cho tâm trí ta giữ được thinh lặng đích thực. Đó là một cuộc tái tạo mà ta được dự phần, và một ngày nào đấy, ơn Chúa sẽ soi chiếu và biến đổi, trong khi thu hút ta từ nơi sâu thẳm nhất của bản thân ta và mặc khải cho ta những mầu nhiệm dấu ẩn của Kinh Thánh.

B – Ngày 30.5

Như ta đã thấy, bậc khiêm nhường thứ nhất là sống trước sự hiện diện của Chúa. Đột nhiên nhận ra rằng ta không chỉ có một mình, và có một Đấng Khác đang ở trong thâm cung lòng ta. Nhưng đây không phải là chuyện tưởng tượng, hay một ảo tưởng. Với thánh Biển Đức, Thiên Chúa hiện diện ngay trong cuộc sống hằng ngày của ta. Và điều này mang lại hai hiệu quả.

Hiệu quả thứ nhất hệ tại ở việc ta làm, ở những lựa chọn thầm kín nhất của ta. Trước đến giờ phong cách sống của ta chỉ dựa theo cái dáng vẻ hời hợt bên ngoài, chỉ quan tâm chăm sóc cái bề mặt dẫu rằng bên trong hoàn toàn trống rỗng. Với bậc khiêm nhường thứ nhất, cuộc sống ta có được chiều sâu, có được độ dầy mà trước đây ta chưa hề biết tới. Mọi sự đều trở nên quan trọng. Những điều ta chọn lựa, những điều ta ước muốn là những chọn lựa, những ước muốn được thể hiện trước mặt Chúa. Dần dần ta sẽ sống theo một phong cách khác với trước đây.

Và đó là hiệu quả thứ ba: cuộc đời ta trở thành một lịch sử cứu độ, một lịch sử thánh nơi diễn ra một cuộc chiến. Dần dần khi ý thức về sự hiện diện của Chúa, ta cũng nhận ra mình bị lôi kéo bởi những sức mạnh trái ngược nhau, hướng về mọi phía do những cám dỗ và đủ thứ ước muốn. Điều tốt điều xấu không còn chỉ là những phạm trù triết học hay thần học, nhưng là đối tượng của cuộc chiến nội tâm, trong đó ta không thể không lựa chọn.

Trong tiến trình luyện tập bậc thứ nhất này, cái bằng phẳng tầm thường của cuộc sống ta sẽ hiển hiện. Ta sẽ tiến tới một chiều kích mà trước đến giờ ta không nhận ra: Cuộc sống của ta sẽ bắt đầu có bề dầy. Đó là ý nghĩa của việc đọc Thánh Kinh: giữ cho ta thức tỉnh trước sự hiện diện của Chúa. Như Thiên Chúa đã nói với dân ngài, đã đào tạo họ suốt dòng lịch sử của họ, ngài cũng nói với ta, cũng đào tạo ta trong lịch sử của ta. Bậc khiêm nhường thứ nhất tương hợp với bậc thứ nhất trong việc đọc Thánh Kinh: Thánh Kinh trở thành lịch sử riêng của tôi, thành trình thuật về cuộc mạo hiểm nội tâm của tôi.

C – Ngày 29.9

Bậc khiêm nhường thứ nhất, trong đó thánh Biển Đức đặt lòng kính sợ Chúa đối nghịch với ý riêng, kết thúc bằng một trích dẫn Thánh Kinh có vẻ như một lời buộc tội ta: “Ngươi sống như thế mà Ta đã làm thinh” (Tv 49,21). Chúng ta thường hay quên rằng chúng ta vào đan viện để sống trước nhan Thiên Chúa, và chúng ta thường nhượng bộ lối suy tư của con người cũ: “không thấy tận mắt thì không bắt được”. Nhưng phải chăng Thiên Chúa nhìn ta bằng cặp mắt xoi mói, theo như mạch văn của Thánh Vịnh này, trong đó Thiên Chúa đến đánh bật kẻ vô đạo ra để vạch trần sự dối trá của họ?

Điều đó chẳng đưa tới khiêm nhường, nhưng tới sợ hãi và mất tin tưởng. “Ngươi sống như vậy mà Ta đã làm thinh”. Con đường khiêm tốn đưa ta giáp mặt với cái sốc vì sự im lặng của Thiên Chúa. Ta phản bội, Thiên Chúa làm thinh; ta giả hình, Thiên Chúa làm thinh; ta lén lút làm điều xấu, Thiên Chúa vẫn làm thinh. Và nếu ta cứ chế diễu Chúa như thế mãi, nếu ta cứ nhạo cười ngài, cứ phản bội ngài, ngài cũng vẫn cứ làm thinh. Ngài chẳng hề khiếu nại, nhưng chỉ đợi chờ.

Và chính sự nhẫn nại của Thiên Chúa, sự im lặng yêu thương của người cha đứng bên đường chờ đợi con trở về, cái nhìn trìu mến Chúa Giêsu dành cho người thanh niên giầu có không biết bỏ hết để đi theo ngài, một ngày nào đó sẽ cho ta thấy Thiên Chúa có lý khi ngài im lặng trước những chối từ của ta. Vì bậc khiêm nhường thứ nhất là ý thức và chấp nhận sự chối từ có sẵn trong ta, cũng như khám phá ra rằng Thiên Chúa luôn luôn đợi chờ ta, không bao giờ nản. Bởi lẽ ngài yêu ta trước.  

Ngày 30.1 – 31.5 – 30.9

 3l Bậc khiêm nhường thứ hai là không yêu thích ý riêng, không tìm thỏa mãn ước muốn của mình, 32 nhưng mọi hành động đều theo lời Chúa: “Ta không đến để làm theo ý Ta mà là ý Ðấng đã sai Ta”. 33 Thánh Kinh cũng nói: “Chiều theo ý riêng sẽ chuốc lấy hình phạt, gắng công vâng phục sẽ được ân thưởng”.

Chú giải:

A – Ngày 30.1

          Trong tiếng la tinh, từ “proprius” (riêng tư) có liên hệ gần với hai từ “prope” nghĩa là “ở bên”, “gần”, và từ “proprietas” nghĩa là “của riêng”. Như vậy, từ “ý riêng” bao hàm cả hai nghĩa này: cái gì gần ta nhất, cái làm cho ta thành một hữu thể đặc thù, cá biệt, và cái gì ta sở hữu, cái là của riêng ta.

Ta hiểu được tại sao tự do thường được liên kết với ý riêng. Khi ấy tự do sẽ là khả năng ở gần bên mình nhất, sống tính xác thực của bản thân mình, biểu lộ tính đặc thù, cá biệt của mình, khả năng có thể hưởng thụ lợi ích riêng, tài sản riêng.

Tuy nhiên, truyền thống thiêng liêng luôn luôn chiến đấu chống lại ý riêng, như thánh Biển Đức nói trong bậc khiêm nhường thứ hai này. Như vậy, phải chăng đời sống thiêng liêng là một hình thức áp chế đã lạc hậu, một kiểu nô lệ hóa và tước đoạt tự do của con người?

Vấn nạn này người ta rất thường nêu lên để chống Giáo Hội. Nhưng phải nói ngược lại mới đúng. Quả thực, để giúp con người tìm lại được tự do, thoát khỏi dục vọng, tội lỗi, khỏi những ước muốn thác loạn và sự mù quáng, Thiên Chúa đã mở cho ta con đường vâng phục. Vâng phục không phải là đánh mất căn tính của mình, nhưng trái lại để gặp được căn tính đích thực khi xa tránh tất cả những cái “tôi” sai lạc ngăn cản ta trở nên chính mình. Vì cái tôi đích thực, ẩn khuất, dấu kín nơi ta chính là căn tính đích thực của ta, tự do thật của ta. Mọi sự khác đều giả dối hết.

B – Ngày 31.5

Ở bậc khiêm nhường thứ nhất ta khám phá được hai điều: sự hiện diện của Thiên Chúa trong ta và nỗi đau đớn khi phải bỏ ý riêng để thuận theo ý Chúa. Ở bậc thứ hai này, thánh Biển Đức đề nghị ta đi thêm một bước nữa. Bị bó buộc phải lựa chọn giữa hai ý muốn ở trong ta, giữa hai ước muốn xâu xé lòng ta, ta sẽ chọn Chúa thay vì chọn theo những ước muốn của mình.

Bước tiến từ bậc thứ nhất đến bậc thứ hai đức khiêm nhường được thực hiện bằng một thứ rạn nứt nội tâm. Ta không còn trong giai đoạn đối đầu giữa hai ý muốn như ở bậc thứ nhất nữa. Nhưng một điều gì đó đã xẩy ra khiến cho lòng ta chọn Chúa hơn chọn mình, dù rằng ta vẫn còn cảm nhận có căng thẳng giữa hai sức mạnh đang xâu xé ta.

Với bậc thứ hai, ta hoà nhập thực sự vào tác động của ơn thánh, vì có lẽ đó là yếu tố cơ bản nhất của kinh nghiệm thiêng liêng chân chính được tỏ hiện nơi đây, tức là từ bỏ ước muốn riêng để thực hiện điều Thiên Chúa muốn. Mặc dầu có còn vấp ngã, còn do dự và đau khổ, từ nay đan sĩ đã biết điều mình phải làm.

Khi thuận theo ý Chúa, là lúc khiêm tốn bắt đầu phát huy, và khiêm tốn tăng trưởng dần nhờ thuận theo ý Chúa trong những chuyện nho nhỏ từng ngày. Trong giai đoạn này đau khổ là đặc thù của con đường khiêm tốn. Người khiêm tốn ý thức sâu sắc về sự mỏng dòn của mình. Họ biết mình không thể nương tựa vào bất cứ sự gì, nhất là bản thân mình. Chính vì thế, gần như một cách tự nhiên, họ hết lòng vâng phục và sống theo phán đoán của người khác, như ta sẽ thấy ở bậc thứ ba.

C – Ngày 30.9

“Tôi không đến để làm theo ý tôi, nhưng làm theo ý đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). Đây là lần thứ hai câu này được trích dẫn. Lần đầu thánh Biển Đức đã trích dẫn ở câu 13 chương 5 về đức vâng lời, trong một bối cảnh giống hệt như ở đây: đó là theo gương bắt chước Chúa Kitô. Đề tài bắt chước có một giá trị cốt yếu về nhân loại học, trước khi có ý nghĩa thiêng liêng. Các trò chơi của trẻ em là bắt chước những sinh hoạt của thế giới người lớn. Ta không thể không ngạc nhiên khi thấy những trẻ em nhỏ xíu chơi trò buôn bán, lái xe v.v. một cách rất nghiêm túc.

Bắt chước đòi phải có hai điều: nhìn người làm mẫu, và làm theo như họ. Hẳn là vì thế mà thánh Biển Đức để việc bắt chước ở ngay bước đầu của cây thang khiêm nhường. Vì khiêm nhường đòi hỏi ta làm hai việc: hướng cặp mắt ra khỏi mình để nhìn người khác, và chấp nhận học làm theo người khác.

Ai co cụm vào mình và không còn biết nhìn nữa, ai nghĩ chẳng có gì phải học, người ấy sẽ không thể bước vào đường khiêm tốn. Trái với điều đôi khi ta tưởng, khiêm tốn là điều kiện để mở ra trong lòng ta những không gian bát ngát của tự do và niềm vui đích thực.

Quên mình đi, biết rằng mình không biết, đó là khoa học của các thánh, những con người chăm chú nhìn vào Đấng “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đường khiêm tốn là con đường tuyệt hảo giúp ta nhìn thấy được Thiên Chúa như Chúa Giêsu dậy: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).

Ngày 31.1 – 1.6 – 1.10

 34 Bậc khiêm nhường thứ ba là vì yêu mến Chúa, ta hết lòng tùng phục người trên theo gương Chúa, như lời thánh Tông Đồ nói về Ngưi: “Người đã vâng phục cho đến chết”.

Chú giải:

A – Ngày 31.1

Với thánh Biển Đức, cũng như với tác giả Thư Êphêsô, khiêm nhường là dấu hiệu của sự lớn lao, là ấn tích của điều cao cả đích thực. Ở đây thánh Biển Đức nêu lên ba đặc điểm cơ bản của khiêm nhường, có thể áp dụng cho mỗi người trong chúng ta.

Trước hết khiêm nhường là vâng phục, nghĩa là khả năng coi người khác, bề trên cũng như anh em, mỗi người anh em, là người có thể nói với ta một lời đến từ Thiên Chúa. Đặc tính cơ bản của khiêm nhường là lắng nghe, mà không hề có thành kiến về người khác chỉ vì họ khác với ta.

Đặc điểm thứ hai của khiêm nhường là ta không thể khiêm nhường nếu không yêu mến Chúa. Nếu ta lắng nghe chính là vì ta khao khát Lời đến với ta từ nơi khác, bên ngoài bản thân ta, vì ta khám phá ra rằng nguồn mạch sâu xa của hữu thể ta là ở nơi Đấng Khác.

Đặc điểm thứ ba được thánh Biển Đức đề cao là theo gương Chúa Kitô: trở nên hình ảnh Chúa Kitô và nên giống như ngài.

Lắng nghe, yêu mến, hình ảnh. Chỉ ba từ đó đã đủ để làm nên một cuộc đời mà tâm điểm được đặt nơi Thiên Chúa chứ không phải nơi mình nữa.

B – Ngày 1.6

Ở bậc khiêm nhường thứ hai, thánh Biển Đức nêu ra chủ đề cơ bản là việc chữa trị cho khỏi ý riêng, chủ đề này sẽ đạt tới cao điểm ở bậc thứ sáu. Trước hết ngài mời gọi đan sĩ xa tránh những ước muốn riêng, đừng chiều theo chúng. Để làm được vậy, ngài đề nghị một phương thế ở bậc thứ ba, đó là sống vâng lời. Phải nhận rằng ngày nay ta không còn dễ dàng nghe theo đề nghị này nữa, vì ta rất mong muốn có được cái mà ta gọi là tự do. Như thế thì phải chăng điều thánh Biển Đức đề nghị đã lỗi thời?

Để hiểu lời thánh nhân, phải khởi đi từ kinh nghiệm thiêng liêng ta có được nơi nguồn cội con đường khiêm tốn, đó là kinh nghiệm về Đấng Khác. Như ta đã thấy, bậc khiêm nhường thứ nhất là sống trước sự hiện diện của Chúa. Có nghĩa là bậc thứ nhất tương ứng với việc Đấng Khác gia nhập vào cuộc sống của ta. Ở bậc thứ nhất này, đan sĩ không còn bị giam hãm trong cuộc độc thoại cằn cỗi với chính mình nữa, nhưng đi vào cuộc đối thoại với Lời Chúa. Trong bậc thứ nhất, cuộc đời ta được lôi ra khỏi cái tầm thường để trở nên một lịch sử thánh, lịch sử về một cuộc gặp gỡ, một Mặc khải công trình của Chúa trong đời ta.

Bình thường thì sự gia nhập của Đấng Khác vào đời ta thay đổi cái nhìn của ta về mình, về những gì ta ước muốn. Cho tới lúc ấy mọi sự xem ra thật đơn giản. Chỉ cần sao được tự do, tức là được làm điều ta muốn. Việc Chúa gia nhập vào đời ta cho ta cảm nhận được một tự do khác sâu xa hơn, nhưng dường như ý muốn và những ước vọng của ta lại muốn ngăn cản. Ta nhận ra rằng ta không được tự do như mình tưởng, rằng tự do của ta bị trói buộc, vì ta không làm được điều thiện mà ta ham thích. Từ đó, như thánh Biển Đức nói ở câu 31, trong bậc thứ hai, ta đâm ra gớm ghét mình. Ta khám ra rằng ta là kẻ thù của ta. Vậy phải làm gì?

Chính khi đó ta bước vào bậc thứ ba như vừa đọc, là bậc dẫn ta vào đức vâng lời. Ta thấy vấn đề không phải là vâng lời vì buộc phải vâng lời, nhưng vì do kinh nghiệm ta hiểu rằng ý muốn và những ước vọng của ta thật sự là những giây xích trói buộc ta, và ta không thể tự mình thoát ra được.

Bậc thứ ba đức khiêm nhường là trao phó mình cho một người khác, việc này đòi hỏi ta phải có ý thức hay kinh nghiệm thiêng liêng về hai điều cơ bản: đó là ý thức về sự hiện diện của Đấng hoàn toàn khác với ta, và ý thức về việc ta không thể tự thoát ra khỏi thói xấu cho mình là trung tâm. Ta có được khiêm nhường là nhờ hai ý thức này và nhờ ước muốn ra khỏi ngõ cụt qua nẻo vâng lời, đây là con đường đích thực giải thoát cho tự do của ta.

C – Ngày 1.10

Trong bậc khiêm nhường thứ ba này ta gặp lại những yếu tố đã thấy ở hai bậc trước: vâng phục bề trên, bắt chước Chúa. Nhưng thánh Biển Đức điểm thêm một nét bổ túc, làm cho bậc thứ ba này có mầu sắc đặc biệt, khi ngài nêu lên ý tưởng “vì yêu mến Chúa”.

Ở bậc thứ hai, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới sự kiện là vâng phục, bước đầu tiên dẫn tới khiêm nhường, được xây dựng trên việc bắt chước Chúa Kitô, ngài không đến để làm theo ý mình, nhưng để làm theo ý đấng đã sai mình. Tuy nhiên, để có thể vâng phục suốt cả cuộc đời, để không chỉ vâng phục theo hình thức, sự vâng phục phải được thấm nhuần bằng tình yêu.

Như vậy, ta có thể kết luận rằng, đối với thánh Biển Đức, không thể có khiêm nhường đích thực nếu không có tình yêu. Tại sao thế? Và đây là thứ tình yêu nào? Đó là vì, theo thánh nhân, khiêm nhường cũng như vâng phục không hề là tự hạ giá mình, tự hủy diệt bản thân. Nhưng khiêm nhường là để Chúa lớn lên nơi mình, để ngài dần dần hiện diện tràn đầy trong cuộc sống của mình.

Có thể nói rằng, đối với thánh Biển Đức, khiêm nhường không đè bẹp ta, nhưng làm cho ta lớn lên. Tuy chẳng theo cách của con người. Vì điều làm ta lớn lên, điều giúp ta tiến tới mức sung mãn của nhân tính, đó là sự kiện Thiên Chúa đến cư ngụ nơi ta. Sánh với sự kiện này, tất cả những gì vĩ đại nơi con người chỉ là hão huyền, trống rỗng và mong manh. 

Ngày 1.2 – 2.6 – 2.10

35 Bậc khiêm nhường thứ tư là trong khi vâng phục ta có gặp những điều cam go trái ý và bất cứ sỉ nhục nào, vẫn âm thầm kiên tâm chịu đựng; 36 không nản lòng, không lùi bước. Thánh Kinh dạy rằng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu độ”. 37 Nơi khác: “Lòng con hãy kiên cường và trông cậy Chúa”.  38 Để chứng minh người trung tín phải vì Chúa mà chịu đựng mọi sự, ngay cả những nghịch cảnh, Thánh Kinh đã nhân danh người đau khổ nói lên: “Cũng chính vì Ngài mà suốt ngày chúng con bị giết, khác nào bầy chiên bị đem đi làm thịt”. 39 Rồi vững dạ vì hy vọng được Chúa ban thưởng, họ mừng rỡ tiếp lời: “Trong mọi tình huống đó chúng tôi thắng vượt hết, nhờ đấng đã yêu thương chúng tôi”. 40 Thánh Kinh còn nói nơi khác rằng: “Vâng, lạy Chúa, Ngài đã thử chúng con như luyện bạc trong lò, Ngài đã để chúng con rơi vào cạm bẫy, gánh nặng nề chồng chất trên vai”.41 Và để dạy ta phải sống dưới quyền bề trên, Thánh Kinh nói tiếp: “Chúa đã đặt người ta trên đầu trên cổ chúng con”. 42 Nhưng trong những nghịch cảnh và nhục nhã, họ cứ nhẫn nại chu toàn huấn lệnh Chúa. Khi bị vả má này, họ đưa ngay má kia. Khi bị giật áo ngoài, họ cho cả áo trong nữa. Khi bị bắt đi một dặm, họ đi luôn hai dặm. 43 Cùng với thánh Tông Đồ Phaolô, họ chịu đựng anh em giả hiệu, và chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình.

Chú giải:

A – Ngày 1.2

Thánh Biển Đức không đưa ra một cách nhìn lý tưởng hóa về đức vâng phục. Trong bậc thứ tư này, ngài nói rõ về những khó khăn, trái ý, những cám dỗ khiến ta chán nản và trốn tránh. Thánh nhân rất thực tế, ngài nói đến những khó khăn dù là với bề trên hay với anh em. Tuy nhiên, ngài lại khuyến khích đan sĩ kiên trì chịu đựng. Không phải để bảo toàn kỷ cương, nhưng nhằm một lý do khác sâu xa hơn mới chỉ xuất hiện lờ mờ.

Thực vậy, ở câu 41 thánh Biển Đức trưng dẫn một đoạn của Thánh Vịnh 65, có thể coi như chìa khóa mở vào ý nghĩa của bậc khiêm nhường thứ tư này. Ngài nói: “Và để cho thấy ta phải suy phục bề trên, Thánh Kinh thêm: ‘Chúa đã đặt người ta trên đầu trên cổ chúng con’. Để hiểu ý nghĩa câu trích dẫn này, ta nên đọc lại câu Thánh Vịnh ấy trong ngữ cảnh của nó.

10 Vâng lạy Chúa, Ngài đã từng thử thách,

luyện chúng con như luyện bạc trong lò,

11 đã để cho rơi vào cạm bẫy,

Gánh nặng nề chồng chất cả trên vai,

12 mặc thiên hạ cỡi lên đầu lên cổ.

Cơn nước lửa chúng con từng gặp bao lần,

Nhưng Ngài đã cứu thoát, đem ra chỗ thảnh thơi”.

Ba câu Thánh Vịnh trên đây tóm gọn cách tuyệt vời bậc thứ tư đức khiêm nhường, là kinh nghiệm thiêng liêng của đức vâng phục đan tu.

Ở câu 10: trong cuộc sống ta, vâng phục là lò luyện kim giúp ta tách rỉ sét ra khỏi vàng. Ở câu 11: đó là lý do khiến ta, vào một lúc nào đó, cảm thấy bị sa bẫy, bị mắc kẹt. Ở câu 12: có ý tưởng về gánh nặng, về việc bị đẩy vào chỗ cùng cực: nước và lửa. Nhưng tất cả chỉ là để đưa ta đến chỗ thảnh thơi. Vâng phục là con đường mạc khải. Khi giải thoát ta khỏi cái hời hợt, giả tạo, vâng phục đưa ta tới sự giầu sang đích thực.

B – Ngày 2.6

Như ta đã thấy hôm qua, tự do của ta được giải thoát nhờ vâng phục. Nhưng đây lại là một công việc cam go. Vả lại, thánh Biển Đức không dấu giếm điều này. Ngài bảo đó khác nào như lò luyện bạc (c.40), như lò sát sinh nơi chiên bị dẫn tới làm thịt (c.38), như gánh nặng chất trên vai (c.40-41), như cái tát vào mặt (c.42), như áo choàng bị tước đoạt (c.42), như con đường đi mãi không hết (c.42), như sự phản bội bởi những anh em giả hiệu (c.43).

Trước những nỗi cam go như thế, thì việc một lúc nào đó ai cũng có thể bị cám dỗ muốn trốn tránh là chuyện bình thường. Và không phải thánh Biển Đức không biết tới điều đó. Nhưng ngài mời gọi đan sĩ chịu đựng chứ không nản lòng cũng không bỏ cuộc (c.36). Tuy nhiên, ta có thể tự hỏi ngài muốn dẫn ta tới đâu. Đâu là tự do đã được hứa hẹn và rất được khát mong?

Thực ra, nơi bậc thứ tư này, ta thấy mình ở đỉnh cao của tiến trình đã được gợi lên từ bậc thứ nhất, đó là sống trước sự hiện diện của Chúa. Chính giữa những khó khăn, thất bại, hiểu lầm, dường như Chúa đẩy ta vào, mà ta có được kinh nghiệm về sự hiện diện của ngài. Tiến trình đi tới kinh nghiệm này thường xẩy theo hai giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất được thánh Biển Đức diễn tả ở câu 38 và có thể tóm lại bằng một diễn ngữ: “vì ngài”. Điều xẩy đến cho ta chính là vì ngài, chứ ta chẳng có đáng chi. Có lẽ chỉ cần bỏ cuộc, ra khỏi đan viện, cho hết khổ, cho thoát được cái hỏa ngục đó. Khi ấy ta có thể oán hận cả Chúa vì đã kêu gọi ta. Ngài hứa cho ta hạnh phúc, thế mà ta lại bị dồn nén tư bề, bị hổ nhục, tan nát. Chả biết sẽ kéo dài cho tới bao giờ.

Kéo dài cho tới khi hình thành nơi ta một lực cản, một điều gì ta khó mà nhận ra được, nó không thay đổi nhưng đảo lộn tất cả. Thánh Biển Đức tóm gọm điều đó trong câu trích dẫn từ Thư Rôma (8,37): “Trong mọi tình huống đó ta thắng vượt hết nhờ đấng đã yêu thương ta”. Như vậy, bậc thứ tư đức khiêm nhường là bậc mà đan sĩ cảm thấy bị tử thương và được Chúa cứu chữa. Đó là bậc của kinh nghiệm về ơn cứu độ, là bậc được gồm tóm tuyệt vời trong câu Thánh Vịnh: “Chúa đã đáp lời con”. Từ nay đan sĩ không chỉ sống trước sự hiện diện của Chúa nhưng còn trước sự hiện diện của Đấng Cứu Độ mình.

C – Ngày 2.10                                                       

Ở bậc khiêm nhường thứ tư này, thánh Biển Đức cho ta một hình ảnh về đức vâng lời chẳng có gì là phấn khởi. Ngài nói: “Khi vâng phục ta có gặp những điều cam go trái ý và bất cứ sỉ nhục nào, vẫn âm thầm kiên tâm chịu đựng” (c.35). Và xa hơn: “Chính vì Ngài mà suốt ngày chúng con bị giết, khác nào bầy chiên bị đem đi làm thịt” (c.38). Rồi, “Ngài đã thử chúng con như luyện bạc trong lò, Ngài đã để chúng con rơi vào cạm bẫy, gánh nặng nề chồng chất trên vai” (c.40). Và đâu là những gánh nặng nề nếu không phải là những bề trên mà thánh Biển Đức nói tới (c.41): “Chúa đã đặt người ta trên đầu trên cổ chúng con”.

Phải làm gì trước một cơn hồng thủy như thế? Ở nhẫn nại, giơ luôn má khác, cho luôn cả áo choàng, và đi ngay hai dặm với người bắt ta đi một dặm (c.42). Tất cả đều vượt mức! Có lẽ người ta sẽ bảo thánh Biển Đức lấy làm thích thú khi gây sợ hãi cho môn đệ nào dại dột bước vào đường vâng phục.

Những điều đó xem ra quá khắt khe nếu thánh Biển Đức không cho ta một cách giải quyết ở câu 37. Quả thực, vấn dề không phải con người nhưng là Thiên Chúa: “Lòng con hãy kiên cường và cậy trông vào Chúa”. Khi ta bắt đầu cảm thấy gánh nặng, khi bực bội hay chán nản xẩy ra, khi ta muốn buông trôi tất cả, thì đó là dấu tốt. Đó là dấu cho thấy Chúa rất gần ta. Vì khi mọi sự đều sụp đổ, mọi sự đều trở nên tồi tệ, khi ta không thể làm gì được nữa, thì đó là lúc ta nhận ra được nỗi bất lực của mình, là lúc Chúa ra tay hành động.

Ngày 2.2 – 3.6 – 3.10

44 Bậc khiêm nhường thứ năm là lấy lòng khiêm tốn mà thành thật tỏ bày cùng viện phụ mọi ý tưởng xấu xa đột nhập vào lòng và những lỗi thầm kín. 45 Thánh Kinh khuyên nhủ ta về điều đó rằng: “Con hãy bộc lộ với Chúa đường lối con đi và trông cậy nơi ngài” .46 Lại rằng: “Con hãy xưng thú với Chúa vì ngài nhân lành, vì lượng từ bi ngài tồn tại muôn đời”. 47 Và ngôn sứ cũng nói: “Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài, con chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con, 48 con tự nhủ: nào ta đi thú tội cùng Chúa và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con”.

Chú giải:

A – Ngày 2.2

Bậc khiêm nhường thứ năm là bậc đưa ta ra ánh sáng. Quả thực, với thời gian, ta có thói quen che đậy đi cách sống của mình. Ta dấu trong bóng tối những gì khiến ta ngượng ngùng, những gì làm méo mó hình ảnh của ta trước mắt người khác và trước mắt ta. Sau cùng, ta vô tình tạo cho mình hai khuôn mặt khác nhau. 

Ta cứ tưởng sự phân rẽ nội tâm đó, thái độ hai lòng như Thánh Kinh nói đó sẽ bảo vệ mình. Nhưng thực ra căn bệnh tâm hồn ấy sẽ thâm nhập vào tận những nơi sâu kín nhất của tâm thần, những ngõ ngách khuất ẩn nhất của lòng ta. 

Làm sao thoát khỏi cái bẫy mà ta đã vô tình tự gieo mình vào, khiến ta có nguy cơ biến đời mình thành khô cằn và trống rỗng? Thánh Biển Đức thấy chỉ có một cách thế duy nhất, đó là bày tỏ những tư tưởng của mình ra: “Bậc khiêm nhường thứ năm là lấy lòng khiêm tốn mà bày tỏ cùng viện phụ mọi ý tưởng xấu xa đột nhập vào lòng” (c.44).

Thánh Biển Đức khiến ta lúng túng quá. Bày tỏ những bất an trong tâm hồn với một người anh em ta cảm thấy gần gữi hay với một người bạn thì được. Nhưng với viện phụ? Tại sao phải khó khăn như thế? Tuy nhiên, chính nhờ con đường này, đôi khi đòi ta phải quyết liệt cố gắng, mà ta có thể tìm lại được sự thống nhất nội tâm, tìm lại được tự do Thiên Chúa ban cho những con tim tinh tuyền.

 B – Ngày 3.6

Kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời ta, ở bậc khiêm nhường thứ nhất, giúp ta ý thức được mọi trở ngại ta mang nơi mình (bậc hai). Thánh Biển Đức hiến cho ta một phương thế thoát khỏi những trở ngại ấy đó là đi trên con đường vâng phục (bậc ba). Nhưng ở bậc bốn ngài cảnh giác ta rằng đó là con đường khó đi, nhiều cạm bẫy và ta thường bị cám dỗ lẩn tránh. Vì thế, ở bậc thứ năm này, thánh nhân mời gọi đan sĩ cởi mở tâm hồn với viện phụ.

Viện phụ có phép mầu hay thuốc tiên nào chữa ta khỏi cám dỗ chăng? Thực ra thì thánh Biển Đức muốn nhắc lại một đề tài thiết thân nơi Cassianô, đó là khi bày tỏ những tư tưởng xấu của mình ra, ta sẽ hết bị chúng giam hãm. Tuy nhiên, trong khi ở những nơi khác, ngài nói đan sĩ có thể trình bày với viện phụ hay với một vị cao niên, thì ở đây ngài chỉ nói tới viện phụ. Phải chăng ngài quên sót? Tại sao lại viện phụ?

Trước hết ta hãy nhớ lại bối cảnh của đoạn tu luật này. Như đã nói ban đầu, ta đi vào đường vâng phục với nhiều khó khăn và cám dỗ. Mà một cách nào đó người cám dỗ ta lại chính là viện phụ! Dù không muốn và ngay cả không ý thức, chính ngài lại là người gây cản trở cho ta, đi ngược lại ước muốn của ta, đòi ta làm điều ta không ưa, dẫn ta đến nơi ta không muốn đến. Chính ngài là chướng ngại vật, là cớ vấp phạm, là tảng đá làm cho té ngã.

Trong trường hợp này, cám dỗ đầu tiên, cám dỗ nguy hiểm nhất, là muốn tránh mặt viện phụ, muốn đi đường tắt. Tuy vẫn sẵn sàng vâng lời ngài, nhưng ta lại xoay xở cho ít phải vâng lời bao nhiêu có thể. Ta đổi hướng đi, ta đội mũ áo vai trùm kín đầu để khỏi phải chào, ta tránh gặp mặt.

Đó là tâm điểm của bậc khiêm nhường thứ năm: không tránh gặp mặt người là cớ cho ta bực mình khó chịu, nhưng đi thẳng tới hòn đá chướng ngại, đám bộc lộ tâm hồn để có thể nói theo lời Thánh Vịnh: “Chúa đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 31,5), như thánh Biển Đức trưng dẫn khi kết thúc bậc thứ năm này.

C – Ngày 3.10:

Ở bậc thứ năm đức khiêm nhường, thánh Biển Đức mời gọi đan sĩ bày tỏ với viện phụ những điều thầm kín trong lòng, và ngài đưa ra lời mời gọi ấy một cách khiến ta ngạc nhiên, vì những lời Kinh Thánh ngài trưng dẫn không liên quan đến viện phụ, nhưng đến chính Chúa. Điều này có thể khiến ta kinh ngạc và có lẽ khó chịu nữa, nếu chỉ đọc đoạn tu luật này theo quan điểm của đan sĩ. Và thường ta vẫn đọc như thế. Nhưng tối nay ta nên đọc theo quan điểm của viện phụ. Vì, bằng những trưng dẫn  Thánh Kinh được chọn, thánh Biển Đức mời gọi viện phụ phải có một thái độ nội tâm nào đó đối với anh em.

“Hãy bộc lộ với Chúa đường lối con đi và trông cậy nơi ngài”. Viện phụ phải khơi dậy trong lòng anh em niềm hy vọng chứ không phải nỗi thất vọng. “Hãy xưng thú với Chúa, vì ngài nhân lành và lượng từ bi ngài tồn tại muôn đời”. Dù anh em đã tin tưởng nơi ngài, viện phụ vẫn phải, với tất cả lòng nhân ái, đón nhận anh em cách nào để họ có thể chắc được rằng ngài yêu thương họ. “Con tự nhủ: nào ta đi thú tội cùng Chúa và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con”. Viện phụ là con người của tha thứ.

Trong đoạn tu luật này ta thấy có sự đòi hỏi về phía viện phụ lớn hơn là về phía đan sĩ. Và có điều gì đó rất hay, rất sâu sắc đối với mỗi người chúng ta, một điều gì đó ứng dụng được cho mọi người. Không thể chờ đợi người anh em khiêm tốn, nếu ta không có thái độ cởi mở đón nhận. Đấy có lẽ là sứ điệp quan trọng nhất thánh Biển Đức muốn gửi đến chúng ta trong bậc khiêm nhường thứ năm này: tùy theo thái độ đón nhận của mình mà chúng ta có thể giúp người anh em lớn lên trong đức khiêm tốn hoặc trái lại khiến họ nản lòng, không còn muốn cố gắng thêm nữa.

Ngày 3.2 – 4.6 – 4.10

49 Bậc khiêm nhường thứ sáu là đan sĩ bằng lòng với tất cả những gì hèn kém và tồi tệ nhất. Trong mọi công việc được giao, họ tự coi mình là một nhân công vụng về và bất xứng; 50 cùng với vị ngôn sứ, họ tự nhủ mình rằng: “Con quả đã ngu si chẳng hiểu, trước mặt Ngài như thú vật nào hơn, thật con ở với Chúa luôn”.

Chú giải:

A – Ngày 3.2

“Con ở với Chúa luôn”. Khi mọi sự đều xuôi thuận thì dường như nghĩ mình đang sống trước mặt Chúa là điều chẳng mấy khó khăn. Nhưng khi có trục trặc, khi xem ra mọi người đều cùng nhau chống lại ta, khi rơi vào tình cảnh “hèn kém và tồi tệ nhất”, như thánh Biển Đức nói, thì chả còn thấy Chúa đâu nữa.

Quả thực, cảm nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cơn thử thách là một ơn đặc biệt, đôi khi rất đau đớn, nhưng lại giúp ta thêm kiên vững trong ơn gọi.

Ở bậc thứ sáu này thánh Biển Đức đi xa hơn một chút. Thực vậy, đây không nói tới cảm nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, về việc Thiên Chúa hiện diện trước mặt con người, nhưng đúng hơn về việc con người hiện diện trước mặt Thiên Chúa: “Con ở với Chúa luôn”. Đây không còn phải là một ơn tác động vào cảm tính, một ơn mang lại niềm khích lệ, nhưng là việc biến đổi hữu thể sâu xa của ta, một cách thức hiện hữu được ghi khắc trong cõi thâm sâu nhất của bản thân ta.

Ở bậc khiêm nhường thứ sáu, hữu thể đã ngả về “Ngài”, đấng sẽ dần dần chiếm hữu cả cuộc đời đan sĩ. Từ chỗ bận tâm đến “mình” đan sĩ chuyển sang việc hướng về “Ngài”. Chính vì thế mà đan sĩ “bằng lòng”. Việc ngả về “Ngài” đó thực ra là việc mở lòng ra đón nhận sự bình an không thuộc về ta, không từ ta mà đến, vì “chính Ngài là bình an của ta”. Bình an này không còn lệ thuộc vào điều ta có hay ta không có, vào điều ta đạt được hay không đạt được. Đó là vì sự bình an ấy vượt quá bản thân ta, vượt xa tất cả mọi sự.

B – Ngày 4.6

Bậc khiêm nhường thứ sáu là bậc mang lại trạng thái an tĩnh nội tâm, bậc làm cho đan sĩ thấy hài lòng, dù tình huống có ra sao đi nữa. Và thánh Biển Đức xác minh điều đó bằng một trưng dẫn từ Thánh Vịnh 72, 22-23. Đây là Thánh Vịnh nói về con người lấy làm khó chịu vì kẻ dữ thành công: c.4-8,12. Và đó là Thánh Vịnh nói về chước cám dỗ muốn sống như kẻ dữ, muốn buông theo điều xấu xa: c.2-3,13,21. Đó là Thánh Vịnh mô tả cách người ta có thể làm để dìm mình trong nỗi đắng cay.

Trong bậc thứ sáu này thánh Biển Đức không đưa ra bí quyết để vượt qua nỗi cay đắng tới bình an. Có lẽ ngài cho rằng đan sĩ sẽ nhớ đến những lời trong Thánh Vịnh 72 khi họ sống giai đoạn đời sống thiêng liêng này, vì ngài chỉ trưng dẫn lời kết thúc ở câu 23: “Phần con, con ở với Chúa luôn”. Nhưng làm sao đan sĩ khám ra được điều này?

Thánh Vịnh 72 trả lời ta ở câu 17: “Cho tới ngày được vào thánh điện, con mới am tường…”. Phương thế duy nhất để vượt qua được cớ vấp phạm, nỗi đắng cay, đó là vào thánh điện Chúa, vào trong lòng mình. Vì, trái với điều người ta thường nghĩ, bình an không phải là không có chiến tranh, đây là định nghĩa của thế gian về bình an, một định nghĩa tiêu cực. Bình an không phải là một sự vắng bóng, nhưng là một hiện diện. Muốn định nghĩa được sự hiện diện này, ta phải đi vào thánh điện Chúa là chính bản thân ta, ở trong đáy lòng ta, nơi mà những người được gọi là “bạn hữu của Chúa” sinh sống.

Đó là nguồn mạch duy nhất để có được sự hài lòng mà thánh Biển Đức nói tới, tức là biết mình là “bạn hữu Chúa”. Đối với thánh Biển Đức thì, một cách nào đó, kẻ dữ hay ác nhân của Thánh Vịnh 72 là kẻ không đi vào lòng mình, kẻ theo đuổi những ham muốn của con mắt và thỏa mãn vì thực hiện được chúng. Không thỏa mãn là đường dẫn tới sự “công chính”, là nguồn mạch phát sinh trạng thái rất đặc biệt của con người “hài lòng”.

C – Ngày 4.10

Bậc khiêm nhường thứ sáu cho thấy sự đảo ngược sâu xa nhất mà một con người có thể thực hiện được. Đan sĩ trở nên “lời tạ ơn”. Trước tới nay, mỗi khi gặp trắc trở là ta đi tìm thủ phạm. Đó là tại viện phụ, tại cộng đoàn, tại hoàn cảnh, tại thời thế, hay tại bà con họ hàng, tại thiếu may mắn v.v. Tóm lại là tại xui xẻo!

Rồi tới một ngày ta bỗng dưng nhận ra rằng vấn đề không phải là tìm xem ai là thủ phạm, ai chịu trách nhiệm. Nhưng vấn đề lại đơn giản hơn nhiều, đó là yêu thích những gì hiện có. Yêu mến viện phụ và anh em; yêu thích nơi mình đang ở, công việc mình được giao phó; yêu thích những giới hạn của mình và những khả năng mình đã nhận được. Yêu mình như mình hiện có, vì Chúa yêu thương ta như vậy và anh em cũng yêu thương ta như hiện trạng của ta.

Bậc khiêm nhường thứ sáu là hồi kết của một giấc mơ, một cám dỗ: cám dỗ sống theo một hình ảnh về mình, thứ hình ảnh ngăn trở ta chấp nhận mình như mình hiện là. Bậc thứ sáu này là bước vượt qua quan trọng từ giấc mơ về mình tới sự khiêm tốn chấp nhận mình. Đó là bình thản và đơn sơ chấp nhận thực tại như hiện có.

Để đạt tới bậc khiêm nhường thứ sáu, ta phải mất nhiều năm, với nhiều thử thách và ảo tưởng, nhiều nổi loạn và suy sụp. Nhưng rồi một ngày kia cũng tới được. Với tình yêu và nhẫn nại thì sau cùng Chúa sẽ đưa ta tới ngưỡng cửa hạnh phúc, và ta chỉ còn việc bước vào thôi. Đó là thứ hạnh phúc đẹp hơn mọi giấc mơ ta ấp ủ, hạnh phúc của con người. Vì Thiên Chúa cũng đã nhập thể làm người để dậy ta trở nên những con người thực sự.

Ngày 4.2 – 5.6 – 5.10

5l Bậc khiêm nhường thứ bảy là không những xưng ra ngoài miệng rằng mình thấp kém hèn hạ mà từ thâm tâm cũng xác tín như thế; 52 rồi hạ mình nói như vị ngôn sứ: “Thân con là thân sâu bọ chứ đâu phải là người, con bị đời chửi mắng khinh khi”. 53 Và: “Con được nâng lên rồi bị hạ xuống và đầy nhục nhã”. 54 Lại rằng: “Chúa hạ con xuống là phúc cho con để con học biết thánh chỉ Ngài”.

Chú giải:

A – Ngày 4.2

Bậc khiêm nhường thứ bảy đặt ra cho ta nhiều vấn đề. Thực vậy, ta thường chao đảo giữa hai thái độ trái ngược nhau. Hoặc là cảm thấy mình quá thấp kém, vì đã giáp mặt với thất bại, với những giới hạn, với nỗi bất lực của mình, và khi ấy ta tưởng đó là bậc khiêm nhường thứ bảy. Hoặc là ta muốn sống được bậc khiêm nhường này, nhưng ngay khi có ai khiến ta có cảm giác rằng họ thấy ta “thấp kém hèn hạ”, ta liền trở nên cay đắng và nổi loạn.

Vấn đề lớn của đức khiêm nhường đó là chịu xỉ nhục hay ước muốn sống nhân đức không đủ để làm ta nên khiêm nhường. Thất bại hết cả không đủ để trở nên khiêm nhường, cũng chẳng khiêm nhường được chỉ nhờ ước muốn có nhân đức khiêm nhường. Trong cả hai trường hợp, khiêm nhường luôn luôn có nguy cơ trở thành chua chát.  

Khiêm nhường trước hết không phải là cái nhìn tiêu cực về mình, nhưng là cái nhìn được đổi mới về người khác. Khiêm nhường không hệ tại đánh giá thấp về mình, coi mình hèn kém hơn thực trạng của mình. Nhưng trái lại, khiêm nhường đích thực là nhận biết những ân huệ Chúa ban, mặc dầu ta không xứng đáng, và nhất là hân hoan thán phục về những điều ơn thánh thực hiện nơi anh em ta. Như thế, khiêm nhường không phải là một sức mạnh tiêu cực, nhưng là một quyền năng tích cực biết nhận ra công trình của Thiên Chúa.

Bí quyết để có được khiêm nhường là tình yêu. Chỉ ai yêu mới biết nhận ra sự tốt đẹp của anh em mình. Chỉ ai yêu mới vượt qua được những dáng vẻ bên ngoài, mới phân định được ân huệ dấu ẩn là kho tàng trong ruộng, hạt ngọc quí làm cho mỗi người anh em ta thành một kho báu. Khiêm nhường trước hết là trái tim yêu thương và cặp mắt rộng mở.

B – Ngày 5.6

Câu 71 Thánh Vịnh 118 mà thánh Biển Đức vừa trưng dẫn, khi nói về bậc khiêm nhường thứ bảy, được Cassianô dùng để tóm lược một kinh nghiệm thiêng liêng cơ bản trong cuộc đời đan sĩ, như thấy ở đầu bài Thuyết giáo IV. Trong bài này Cassianô bàn nhiều về điều ông gọi là “Thiên Chúa bỏ rơi”. Tức là có những lúc ta cảm thấy chẳng ước muốn bất cứ điều gì, lòng cứ trơ ra như đá. Và ông tự hỏi tại sao như vậy.

Ông thấy có ba lý do cơ bản. Trước hết, do ta chểnh mảng, thứ hai do ma quỉ cám dỗ, và sau cùng là do sự quan phòng của Chúa. Ông giải thích rằng đôi khi Chúa bỏ ta để ta ý thức sự giòn mỏng của mình và để ta tha thiết cầu nguyện nhiều hơn, trở nên những con người cầu nguyện, bởi biết thân phận mình mỏng giòn yếu đuối.

Rồi Cassianô trích dẫn một vài mẫu gương trong Thánh Kinh, chẳng hạn gương vua Đavit. Ông nói: “Vua Đavit biết rõ lợi ích khi bị Chúa bỏ rơi, nên vua không muốn xin Chúa đừng bao giờ bỏ rơi mình. Vua biết bị Chúa bỏ rơi thì hữu ích cho vua. Vì thế vua nói thêm ở Thánh Vịnh 118,8: “Xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con hoàn toàn”. (TG. 4,6).

Đối với Cassianô, kinh nghiệm về sự nghèo hèn, giòn mỏng của ta là một ơn, một ơn giúp ta biết quì gối xuống và làm cho ta trở nên những con người cầu nguyện.

C – Ngày 5.10

Ở đây thánh Biển Đức không quan tâm tới thứ khiêm nhường chỉ chú trọng đến dáng vẻ bên ngoài chứ không sống khiêm nhường thực sự. Ngài nhắm tới điều sâu xa hơn, cốt yếu hơn. Có những người thực sự khiêm nhường cách sâu xa, nhưng tới một lúc nào đó, lại có kinh nghiệm đau đớn về một giới hạn mà họ chẳng ngờ.

Kinh nghiệm ấy có thể đến từ một lời nói của anh em, một sơ xuất, một từ chối của bề trên. Khi đó, những con người thực sự khiêm nhường ấy bỗng nhiên khám phá ra có điều gì không ổn nơi mình. Họ hết sức hổ thẹn về điều đó. Họ muốn chấp nhận nhưng không thể được.

Khi ấy cái nguy là không dám nói ra, không phải vì giả vờ giả bộ, nhưng vì họ muốn cố gắng sống khiêm nhường. Nhưng làm cách nào cũng không xuôi, thế là họ phát khùng lên hoặc co cụm lại nơi mình và trở nên cứng cỏi. Bởi lẽ sự hổ thẹn bộc lộ cho thấy chỗ rạn nứt sâu xa, vết thương thầm kín mà ta chẳng hay biết. 

Trên con đường khiêm tốn, bậc thứ bảy này có ý nghĩa chủ yếu. Đó là chấp nhận cái phần tăm tối trong ta, chấp nhận những khúc mắc kín ẩn và đôi khi đau đớn mà ta không dám trực diện. Như một nhà giáo dục có tài, thánh Biển Đức mời gọi ta nhẹ nhàng tiếp cận với phần tối tăm ấy, và xử sự như người samaritanô nhân hậu khi băng bó vết thương cho người nghèo khổ là chính ta.

Ngày 5.2 – 6.6 – 6.10

55 Bậc khiêm nhường thứ tám là đan sĩ không làm gì ngoài luật chung của đan viện và gương lành các vị cao niên.

Chú giải:

A – Ngày 5.2

Ta hay nghĩ sự thánh thiện hệ tại làm những việc khác thường, sống thánh thiện là một cách đi ra khỏi cái bình thường. Ta tưởng tượng các thánh là những người đứng ngoài cuộc sống chung của mọi người, vượt lên khỏi đám đông. Tôi có cảm tưởng như thế khi đọc những cực hình các vị tử vì đạo đã trải qua. Thú thật là tôi phải rùng mình sởn ốc mà tự hỏi làm sao tôi có thể chịu được. Không, quả thật là quá sức tôi rồi.

Nhưng khi đọc lại bậc khiêm nhường thứ tám này, tôi thấy có phần an tâm. Nếu không thể bắt chước sự thánh thiện của các đấng tử vì đạo, thì sự thánh thiện mà thánh Biển Đức đề nghị lại gần gũi hơn, hầu như dễ dàng đạt tới được. Đơn giản chỉ là sống đời sống chung như mọi người, không thêm gì cũng chẳng bớt chi.

Tuy nhiên, chuyện đó xem ra lại không đơn giản. Ta thường thích làm khác, chỉ vì muốn làm khác để tỏ ra mình độc đáo, để cảm thấy mình vẫn còn làm chủ cuộc sống của mình thay vì bất lực nhìn nó vượt khỏi tầm tay.

Có lẽ ta phải được đưa xuống thật sâu, phải gạt bỏ nhiều ảo tưởng, để có thể sống như mọi người. Khi ấy nhân vật ta tự tạo cho mình sẽ rơi rụng như mảng da khô. Khi ấy ta sẽ trưởng thành để sống cuộc đời đích thực, cuộc đời không cần đến những cái giả tạo hay những hào nhoáng của thế gian nữa.

B – Ngày 6.6

“Luật chung của đan viện”. Thành ngữ này được thánh Biển Đức dùng trong bậc thứ tám nhắc ta nhớ đến nhu cầu cơ bản là rất thường khi ta muốn nổi, muốn tách biệt khỏi đám đông. Quả thực, có nhiều lúc ta liên kết ý thức về căn cước của mình với ý thức về cái phân biệt ta với người khác. Như thể làm vậy thì ta sẽ là mình hơn, sẽ khác người hơn.

Đúng là điều ấy có một khía cạnh tích cực: vì sự tan hòa vào đám đông là điều không lành mạnh cho việc xây dựng nhân cách. Thánh Biển Đức không đòi ta phải biến mình đi, phải tan hòa vào một nhóm người nào. Điều ngài chờ đợi nơi đan sĩ là họ ý thức về nền tảng đích thực kiến tạo nên con người họ, chứ không dựa trên những nền tảng sai lạc.

Cái nguy của mọi con người là coi căn cước của mình chỉ ở bề mặt, chỉ là cái bản ngã không vững bền. Tất cả những gì xẩy đến cho ta, những gì có nơi ta không thể là bản thân ta. Ta còn vô cùng lớn lao hơn cả khối những dục vọng, những sợ hãi, những thất bại và thành công của ta.

Với thánh Biển Đức, việc khám phá ra cái “tôi đích thực”, bản ngã đích thực, được liên kết với đức khiêm nhường, nghĩa là với việc nhận biết yếu tố bùn đất nơi ta. Chỉ khi nào có thể nhận ra thế giới bên trong đó, ta mới biết tách biệt mình ra khỏi nó, mới có khả năng coi nó đúng như thực chất của nó: là vật liệu mà ơn thánh phải nhào nặn và biến đổi. Tôi không phải là những nỗi sợ của tôi. Những nỗi sợ ấy ở trong tôi. Tôi phải nhận ra chúng để được giải thoát và tự do.

C – Ngày 6.10

Con người ta ai cũng muốn biểu lộ tính độc đáo, khả năng sáng tạo của mình. Khi năng lực sáng tạo bị tắc nghẽn hay bị cản trở không biểu lộ ra được, ta sẽ bị suy yếu và hao mòn cách nào đó. Quả thực, khi sáng tạo, khi phát minh, ta tự tái tạo chính mình. Điều đó được thể hiện nơi những cái thông thường nhất trong cuộc sống, như công việc hay cách sử dụng thời giờ và ngay cả cách ăn mặc chẳng hạn…

Tuy nhiên, trong bậc khiêm nhường thứ tám này, dường như thánh Biển Đức muốn ta từ bỏ cả những chuyện đó nữa. Không làm gì khác với qui định của lề luật và gương mẫu các vị cao niên. Xem ra thánh Biển Đức ngăn chặn hết mọi ước muốn và nhu cầu sáng tạo cũng như đổi mới của ta. Như vậy, ta lại chẳng có nguy cơ bị bóp nghẹt, bị hoàn toàn teo tóp đi sao?

Nguy cơ đó sẽ xẩy ra thực sự, nếu ta cố gắng thực hiện điều thánh Biển Đức muốn theo sức riêng của mình. Vì để sống được bậc khiêm nhường thứ tám trước hết phải có ơn Chúa rồi mới đến cố gắng của bản thân. Nếu nghĩ rằng tự mình ta có thể sống được, ta sẽ đánh mất tinh thần của bậc khiêm nhường này và rơi vào ảo tưởng.

Vì thế đời sống đan tu chỉ cho ta một con đường phải đi, trong khi vẫn để cho ta một khoảng không gian nào đó ngõ hầu ta có thể thở được. Điều giúp ta dần dần sống được theo luật chung và theo gương mẫu các vị cao niên không phải là sự cưỡng ép bên ngoài, cũng không phải sức cố gắng của ta, nhưng đó là việc mở ra trong nơi thâm sâu nhất của bản thân ta một không gian sáng tạo khác, một chân trời mới của tự do. Bậc khiêm nhường thứ tám trước hết là nẻo đường dẫn tới một sự phong phú hoàn toàn thiêng liêng.

Ngày 6.2 – 7.6 – 7.10

56 Bậc khiêm nhường thứ chín là đan sĩ giữ miệng không nói, giữ thói quen im lặng, có hỏi mới thưa. 57 Như lời Kinh Thánh: “Nói nhiều không tránh khỏi tội”. 58 Lại rằng: “Người lắm miệng không thẳng bước trên đời được”.

Chú giải:

A – Ngày 6.2

Nhiều lần trong tu luật, thánh Biển Đức nói tới sự thinh lặng. Trong chương về đức khiêm nhường này ngài cho thinh lặng một ý nghĩa đặc biệt. Đó là thinh lặng để tránh nói điều xấu và để khỏi mất kiểm soát mình. Thánh Biển Đức nêu lên hai điểm này bằng hai trích dẫn Thánh Kinh: Cn 10,19 và Tv 139,12.

Theo kinh nghiệm riêng, ta đều có thể nhận thấy khi không kiềm chế miệng lưỡi, ta sẽ dễ dàng đi tới chỗ nói xấu người khác, khoe khoang về mình, tạo ra những mối nghi ngờ, những tiếng đồn thổi. Chỉ nói những chuyện tốt lành hay những điều vô thưởng vô phạt không phải là dễ. Mỗi người có thể tự xét mình và sẽ thấy kinh ngạc về mình.

Tuy nhiên, thánh Biển Đức không chỉ nhắm tới điều đó. Điều ngài mong muốn hơn nữa là đan sĩ làm chủ được chính mình, làm chủ được cuộc sống của mình.   Đối với ngài, dễ dàng nói năng có nghĩa là ta không có khả năng làm chủ được cuộc sống của ta. Ai không kiềm chế được lời nói cũng sẽ không làm chủ được cuộc sống và những dục vọng sôi sục nơi mình.

Nhưng, kiềm chế lời nói có liên hệ gì với đức khiêm nhường? Khiêm nhường luôn bắt đầu bằng ý thức về điều không được, hay đúng hơn, về thực trạng của mình. Khiêm nhường trước hết soi sáng cho thấy thực trạng của ta, chỉ cho ta cái xà trong mắt mình, và giúp ta nhận thấy rằng cọng rơm trong mắt tha nhân thật chẳng đáng chi. Vì thế, khiêm nhường đòi ta phải thinh lặng và thinh lặng giúp ta ở khiêm nhường.

B – Ngày 7.6

Bậc khiêm nhường thứ chín có liên hệ với chương 6, trong đó thánh Biển Đức nêu lên ý nghĩa sâu xa của thinh lặng. Trong bậc thứ chín này, thánh nhân lặp lại một trưng dẫn đã có ở chương 4: “Nói nhiều không tranh khỏi tội” (Cn 10,19). Và ngài thêm một trích dẫn khác từ Thánh Vịnh 139,12: “Người lắm miệng không thẳng bước trên đời được”. Ta hiểu được điều thánh Biển Đức nhắm tới nhờ thinh lặng, nhưng chuyện đó có liên hệ gì với lòng khiêm tốn?

Người lắm miệng là người để mình bị lôi cuốn theo nhu cầu nói, và thánh Biển Đức nhận xét rằng thường thường nhu cầu ấy có nguy cơ dẫn tới chỗ nói xấu người khác, tới tội lỗi. Như vậy, bậc thứ chín hệ tại ở việc ý thức rằng nguy cơ đó vẫn tồn tại nơi mỗi người chúng ta, và ở việc nhận ra rằng nó có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng.

Như thế thì bậc khiêm nhường thứ chín đặt nhu cầu nói vào hàng thứ yếu. Và ta thấy rằng thinh lặng mà thánh Biển Đức nói đến trong bậc này không chỉ đơn thuần là thinh lặng bên ngoài, nhưng là thứ thinh lặng sâu lắng trong tâm hồn, nơi cội rễ nhân tính của ta. Trong sự thinh lặng này, tôi không còn ở vị trí thứ nhất nữa, nhưng là người khác, như thánh Biển Đức bảo: “Có hỏi mới thưa”.

Như vậy, bậc khiêm nhường thứ chín cũng là một thứ cách mạng nội tâm: nhu cầu nói nơi tôi im lặng để tôi có thể nghe được lời người khác và đáp lại. Đây là bậc giúp ta gặp được người khác, giúp tạo lập cuộc đối thoại vì từ nay đã có đôi tai để nghe, có tấm lòng đủ khả năng đáp lại người hỏi.

C – Ngày 7.10

“Chỉ nói khi được hỏi”. Đó thật là một thử thách chẳng ai mong đợi, vì lỡ người ta quên mà chẳng hỏi gì thì sao? Khi đó thì bao nhiêu ý tưởng, bao nhiêu lời sôi sục trong lòng lại sẽ chẳng bị dồn nén để rồi có nguy cơ bùng nổ sao? Mỗi người chúng ta đều biết đâu là tác hại do nỗi khổ sở vì không nói ra được những điều mình thao thức.

Vậy thánh Biển Đức muốn ta đâm bệnh ra sao? Thực sự, tôi nghĩ không nên coi bậc khiêm nhường thứ chín như một qui luật phải thi hành, nhưng như triệu chứng biểu lộ một tình trạng. Nếu lòng trí ta thôi thúc ta nói, nếu những ý tưởng và lời nói đầy ứ nơi toàn thân ta tới độ trào ra ngoài miệng, thì đó là dấu ta còn rất xa với bậc thứ chín này.

Ở đây không hề có chuyện phải gắng sức, hay như Thánh Vịnh nói, phải nhét dẻ vào miệng, vì nó sẽ bật ra thôi. Nhưng bậc khiêm nhường thứ chín liên quan tới nguồn mạch phát sinh lời nói. Thánh Biển Đức nhắm tới sự bình an của một con tim tràn đầy thinh lặng và an bình, vì sự bình an ấy đã thấu nhập vào chiều sâu của hữu thể.

Ngày 7.2 – 8.6 – 8.10

59 Bậc khiêm nhường thứ mười là đan sĩ đừng dễ cười, cũng đừng vội cười, vì có lời chép: “Người ngu cả tiếng cười cợt”.

Chú giải:

A – Ngày 7.2

Bậc khiêm nhường thứ mười là bậc của niềm vui nội tâm. Tất cả tiến trình qua các bậc khiêm nhường, như thánh Biển Đức diễn tả, thực ra là tiến trình nội tâm hóa. Như vậy, nẻo đường khiêm tốn là nẻo đường hòa giải con người với chính mình, khám phá ra hữu thể sâu xa của mình.

Thánh Biển Đức không hề chống lại sự vui tươi. Trong tiến trình nội tâm hóa này, chính niềm vui cũng thay đổi hình dạng. Nó giãi tỏa nơi nội tâm và từ nội tâm, nó rạng rỡ mà không ồn ào, không gây thương tổn, không làm phiền ai.

Ta nhận biết một người qua cách họ cười. Có những cái cười trầm lặng ấm áp, có những cái cười chát chúa và gây thương tổn, lại có những cái cười trong suốt và tràn đầy kính trọng. Cách ta cười cho thấy ta thế nào. Đó là một dấu hiệu về mức độ trưởng thành siêu nhiên.

Làm chủ được cái cười là một công trình đòi hỏi thời gian lâu dài. Thánh Biển Đức không nghĩ ta sẽ thực hiện ngay được, vì vậy mãi tới bậc khiêm nhường thứ mười ngài mới nói đến.

B – Ngày 8.6

Thường ta hay bật cười vì những cái hớ hênh của người khác, những tình huống khiến người ta hóa ra kỳ cục. Trái lại, khi chính mình rớt vào hoàn cảnh như thế ta không cách nào cười được, mà còn cảm thấy bực bội, tê tái. Điều ấy chứng tỏ cái cười không phải vô thưởng vô phạt như có lúc ta nghĩ.

Cái cười bùng lên vì nó phá vỡ một con đê, giải tỏa một căng thẳng, cho trào ra một lượng quá đầy. Cái cười này trái ngược với mỉm cười, vì mỉm cười có động cơ khác hẳn. Mỉm cười nảy sinh từ lòng nhân ái, từ sự hòa giải sâu xa với chính mình. Vậy làm cách nào để thay vì cười thì ta mỉm cười?

Đối với thánh Biển Đức, muốn làm được vậy ta phải khiêm tốn. Vì khiêm tốn là chấp nhận mình, chấp nhận những yếu đuối của mình, những cái buồn cười, đôi khi cả những cái kỳ cục của mình nữa. Khi khiêm tốn nhìn mình cách sáng suốt, ta sẽ dần dần biết ứng xử nhân ái với những cái kỳ cục nơi người khác.

Lòng khiêm tốn đích thực thì vui tươi mỉm cười, vì nó nảy sinh từ ý thức về sự yếu đuối của con người chúng ta, sự yếu đuối khiến ta cần đến một vị Cứu tinh. Sự cao cả của khiêm tốn chính là ý thức rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu ta và làm cho ta mỉm cười được.

C – Ngày 8.10

Trong Thánh Kinh có hai thứ cười. Có cái cười của kẻ không tin, của kẻ tội lỗi, của kẻ ngạo nghễ nhạo báng Thiên Chúa và Lề Luật, kẻ đáp lại lời Chúa bằng chê bai chế diễu. Và có cái cười của kẻ tin, cái cười của người công chính, vui mừng trước những kỳ công của Chúa, hân hoan cất tiếng reo hò.

Trong Thánh Kinh, cái cười tự nó chẳng tốt cũng chẳng xấu. Tốt xấu đều tùy thuộc ý hướng nội tâm của người cười. Xét cho cùng, tốt hay xấu đều tùy ở sự trong sáng hay vẩn đục của con tim. Có lẽ ta nên dựa theo tính lưỡng diện đó của cái cười để giải thích bậc khiêm nhường thứ mười này. Rõ ràng thánh Biển Đức muốn nói tới mặt tiêu cực của cái cười, đó là cái cười ác độc gây tổn thương và xỉ nhục người khác, khiến họ xấu hổ và chỉ muốn độn thổ mà thôi.

Đó là đích điểm mà bậc khiêm nhường thứ mười nhắm tới. Theo ngôn ngữ ngày nay ta có thể dịch như sau: “Ở bậc thứ mười, người khiêm tốn không bao giờ xỉ nhục ai”. Người khiêm tốn không gây tổn thương cho ai, dù là vô ý. Người ấy hết sức nhạy cảm với đau khổ, với thương tích của anh em mình, tới độ họ không thốt ra bất cứ điều gì có thể khiến anh em đau lòng, dù chỉ là một tiếng cười.

Ngày 8.2 – 9.6 – 9.10

60 Bậc khiêm nhường thứ mười một là khi nói đan sĩ nói nhỏ nhẹ và không cười cợt nhưng từ tốn trang nghiêm, ít lời mà hữu lý, không ầm ĩ to tiếng, 61 như đã chép: “Ít lời là dấu người khôn ”.

Chú giải:

A – Ngày 8.2

Điều làm ta ngạc nhiên khi đọc chương 7 của tu luật , đó là ta càng tiến tới thì các bậc khiêm nhường xem ra càng lúc càng nhỏ lại, khi mà các bậc đầu đã có phần vững chắc hơn. Ta cũng có thể nghĩ rằng những bậc đầu có tính thiêng liêng hơn, sâu sắc hơn. Cảm tưởng này chắc hẳn là do các đề tài nói tới có tính thiêng liêng. Trong khi ở những bậc cuối, thánh Biển Đức có vẻ đi vào chi tiết, chẳng hạn: bậc trước nói về cái cười, bậc này đề cập tới cách ăn nói.

Điều đó làm tôi nhớ lại một câu của Léon Blois: “Chỉ những kẻ hời hợt mới không tin vào cái vẻ bên ngoài”. Câu nói này không mâu thuẫn như ta tưởng đâu. Thực vậy, chỉ cần nhìn vẻ mặt của anh em, ta cũng thường đọc được tình trạng nội tâm của họ. Dáng vẻ, cách đi đứng, nói năng đều bày tỏ con người nội tâm của ta, nhưng ta lại chẳng hay biết. Hơn cả những lời nói hay ho và những tuyên bố hùng hồn. Cái nhìn lại không phản ánh tâm hồn đó sao?

Thánh Biển Đức không yêu cầu ta sửa chữa thái độ bên ngoài. Vì như thế chỉ là giả hình mà thôi. Nhưng ngài nêu lên một vài dấu hiệu giúp ta nhận biết được một thực tại nội tâm, không phải để xét đoán người khác, mà để ý thức rằng ta chưa được như mình mong mỏi. Mục đích của ngài là giúp ta ý thức những giới hạn của mình, trong khi thấy rằng mình chưa phải là đã hoàn thiện. Điều đó thật hữu ích cho ta.

B – Ngày 9.6

Lời nói, cử điệu của thân xác và nét mặt, cả đến sự thinh lặng nữa, là những phương tiện ta có để giao tiếp với người khác. Cũng còn những cách giao tiếp khác mà ta không biết đến, qua đó ta chuyển đạt những trạng thái của tâm hồn mình.

Nhưng giao tiếp không có nghĩa là hiệp thông. Trong bậc khiêm nhường thứ mười một này, thánh Biển Đức nêu ra những cách giao tiếp làm tắc nghẽn hay có nguy cơ gây tắc nghẽn sự hiệp thông. Thực vậy, sự hiệp thông đòi hỏi ta phải có thái độ thích hợp khi tiếp xúc với người anh em, để không bắt họ phải lệ thuộc vào trạng thái tâm hồn ta, vào tính khí của ta. Sự hiệp thông đòi ta phải biết thinh lặng để có thể lắng nghe và tôn trọng sự âm thầm riêng tư của người khác.

Đối với thánh Biển Đức, bậc khiêm nhường thứ mười một là bậc của một tâm hồn thinh lặng để quan tâm đến người khác với tất cả sự tôn trọng, đó là bậc khiêm nhường của đức khôn ngoan. Vì đức khôn ngoan đòi ta phải làm chủ thế giới nội tâm của mình, một thế giới được hình thành bởi những xung động, những dục vọng làm ta mù quáng và khiến ta co cụm lại với mình. Một cách nào đó, đức khôn ngoan chính là phương thuốc chữa trị cái “tôi” của ta.

Ta hiểu được việc thánh Biển Đức đặt bậc này ở gần đầu cây thang. Quả thực tất cả chúng ta đều là nạn nhân của những đợi chờ, những sợ hãi, những ước mong thầm kín, tất cả là những dục vọng trong tâm hồn ngăn cản ta đi đến hiệp thông với người khác, vì ta quá bị ám ảnh bởi chính mình. Có lẽ phải mất đến cả một đời để thoát ra được khỏi nỗi ám ảnh ấy.

C – Ngày 9.10

Bậc khiêm nhường thứ mười một nổi bật qua thái độ được thánh Biển Đức phác họa bằng hai cụm từ: nhẹ nhàng, không lớn tiếng. Điều đó trước hết không nhắm tới thái độ bên ngoài, nhưng tới tâm trạng bên trong tạo nên thái độ ấy.

Quả thực, người nào hăng say nói và lớn tiếng quả quyết điều mình nói là đúng, thì chứng tỏ không những họ cố thủ ý mình mà còn sẵn sàng lấn lướt hay đè bẹp bất cứ ai nói ngược lại. Nhưng ở bậc thứ mười một, sự khiêm nhường đòi hỏi một tâm trạng hoàn toàn khác, một tâm trạng giúp tạo nên bầu khí an bình.

Có một lời cầu nguyện vắn tắt tóm gọn được ý nghĩa của bậc khiêm nhường thứ mười một này: “Lạy Chúa, xin giúp con bình thản đón nhận những gì con không thay đổi được. Xin giúp con can đảm thay đổi những gì con có thể thay đổi. Và xin cho con khôn ngoan để phân định được hai điều đó”.

Bậc khiêm nhường thứ mười một không liên can đến chuyện tự vùi dập mình. Ở đây, khiêm nhường không phải là thoái thác, nhưng là can đảm. Ở đây, khiêm nhường là nhận biết điều gì ngoài tầm tay của mình, nhưng vẫn không vì thế mà thất vọng: khiêm nhường là trạng thái bình an thanh thản. Sau hết, khiêm nhường ở đây là từ bỏ mơ mộng hão huyền để chấp nhận thực tế: khiêm nhường là rất mực khôn ngoan.

Ngày 9.2 – 10.6 – 10.10

62 Bậc khiêm nhường thứ mười hai là không những trong lòng mà cả phong cách bên ngoài đan sĩ đều tỏ ra khiêm tốn trước mặt mọi người, 63 nghĩa là trong khi cử hành Thần Vụ, nơi nhà nguyện, trong đan viện, ngoài vườn, trên đường đi, ở ngoài đồng hoặc bất cứ ngồi đâu, đi đâu, đứng đâu, chỗ nào đầu cũng cúi, mắt nhìn xuống đất, 64 bao giờ cũng đinh ninh mình là phạm nhân đầy tội lỗi, dường như bị điệu ra trước toà án kinh khủng, 65 lòng hằng thầm thĩ lời người thu thuế trong Phúc Âm, mắt nhìn xuống đất và thân thưa: “Lạy Chúa, con là kẻ có tội, chẳng đáng ngước mắt nhìn trời”.  66 Hay nói cùng với vị ngôn sứ: “Con uốn thân hạ mình luôn  mãi”.

67 Vậy, khi đã lên hết các bậc khiêm nhường ấy, chẳng mấy chốc đan sĩ sẽ đạt tới lòng mến Chúa. Và khi lòng mến đã hoàn hảo thì loại bỏ sợ hãi. 68 Nhờ lòng mến ấy tất cả những gì xưa kia họ giữ vì khiếp sợ, thì nay họ bắt đầu giữ không còn vất vả, nhưng đã trở nên tự nhiên thuần thục, 69 không vì sợ hỏa ngục nữa mà vì yêu mến Chúa Kitô, và do tập quán tốt cũng như do lòng ham mộ các nhân đức lôi cuốn. 70 Ðó là điều Chúa khấng nhờ Thánh Linh mà làm tỏ hiện nơi người thợ của ngài , là người đã sạch tội lỗi và thói hư.

Chú giải:

A – Ngày 9.2

Trong bậc thứ mười hai này thánh Biển Đức trao cho ta bí quyết của đức khiêm nhường, một bí quyết đã có nơi tất cả những bậc trước đây. Ở bậc này, ai cũng đều thấy được bí quyết đó. Mọi lúc mọi nơi đều thấy: khi đọc thần tụng, khi cầu nguyện riêng, khi làm việc, khi xuất hành, lúc đứng lúc ngồi hay đi lại, bí quyết ấy đều xuất hiện qua dáng vẻ tầm thường của mọi sự mọi việc (c.63). Bí quyết đó là đan sĩ sống trước mặt Chúa mọi nơi mọi lúc.

Bí quyết của con đường khiêm tốn là sống hiện diện trước sự hiện diện của Chúa, là hiện diện với Chúa, với mình và với thế giới chung quanh. Thánh Biển Đức cho việc hiện diện trước sự hiện diện của Chúa một sắc thái đặc biệt. Theo ngài, lúc ban đầu điều đó dường như đè bẹp ta, hầu như không thể nào chịu nổi. Dường như ta bị đắm chìm trong nỗi kinh ngạc trước sự cao cả của sự Hiện Diện thần linh: “Chúa ở đấy mà con đã chẳng hay!” Nơi bậc thứ mười hai này, đan sĩ như sửng sốt nhận ra sự Hiện Diện thần linh ấy, mọi lúc và mọi nơi.

Lúc đầu nhận thức này như có cái gì đè bẹp ta, như một phán quyết kinh khủng (c.64), nhưng dần dần, với thời gian, Hiện Diện thần linh ấy trở thành Hiện Diện yêu thương, khiến ta không còn sợ hãi nữa (c.67). Như vậy, tính mâu thuẫn của con đường thánh Biển Đức đề nghị với ta đó là nó giúp ta vượt khỏi cái vô thức hời hợt và hào nhoáng để sau cùng ý thức được rằng sự Hiện Diện thần linh ấy thay vì đè bẹp ta thì lại tái tạo ta, giúp ta đứng dậy, chữa lành ta trong khi cho ta có lòng yêu thích điều thiện (c.69).

Với thánh Biển Đức, con đường tình yêu chân chính luôn luôn đi qua sợ hãi. Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa luôn luôn đi đôi với điều thánh Augustinô diễn tả rất hay như sau: “Chúa ở đó, nhưng con lại không ở đó”.

B – Ngày 10.6

Mãi tới bậc thứ mười một, đặc tính của đức khiêm nhường là giúp cho con người xóa mình đi, tan hòa vào đám đông. Đến bậc thứ mười hai thì ngược lại, bậc này khiến ta lộ diện trước mặt người khác. Sau khi đã cố gắng xóa bỏ những méo mó của cái tôi giả tạo, cái bề mặt cồng kềnh vốn che khuất cặp mắt ta, khiến ta không nhìn ra được chiều sâu kín ẩn và huyền nhiệm của nơi mà Thiên Chúa thiết lập Nhà ở của ngài, giờ đây con người xuất hiện như bị đảo ngược. Họ trở nên cửa sổ mở vào mầu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa, thay vì chỉ là một tấm chắn dầy cộm khiến cho chính họ cũng chẳng nhìn thấy được gì.

Có được sự đảo ngược này, có được sự biến đổi kỳ diệu này chính là nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa đã xua tan sợ hãi. Không phải vì ta trở nên xứng đáng hay ít tội lỗi hơn, không phải vậy, nhưng chính vì ta chỉ còn hướng nhìn lên một mình Chúa mà thôi.

Ta có khuynh hướng nói đến tình yêu quá sớm, tưởng rằng ta đã đạt tới được rồi. Thánh Biển Đức chỉ nói đến ở bậc khiêm nhường thứ mười hai mà ít người tới được. Ở bậc này, tất cả những gì là nặng nhọc, khó khăn đều trở nên nhẹ nhàng êm ái. Ở bậc này, Thánh Linh trở nên vị khách thường xuyên của linh hồn, vì toàn bộ căn Nhà đã được quét dọn lau chùi sạch sẽ.

C – Ngày 10.10

Với thánh Biển Đức, khiêm nhường là cây thang giúp ta trèo lên tới tình yêu: “Chẳng mấy chốc đan sĩ sẽ đạt tới lòng mến Chúa, và khi lòng mến đã hoàn hảo thì loại bỏ sợ hãi” (7, 67). Con đường khiêm tốn là con đường giải thoát, dần dần loại bỏ sợ hãi, âu lo làm ta nghẹt thở và ngăn cản ta yêu mến cách đích thực.

Tuy nhiên, thay vì giống như thành công tột đỉnh, một hoàn thành mỹ mãn, bậc khiêm nhường thứ mười hai này lại giống như biên bản về một thất bại ê chề, vì đan sĩ “bao giờ cũng đinh ninh mình là phạm nhân đầy tội lỗi” (7, 64). Như vậy, đối với thánh Biển Đức, điều kiện để có được tình yêu đích thực, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, đó là nhận biết rằng mình không biết yêu. Đây là bài học phi thường của con đường khiêm tốn: luôn luôn bắt đầu bằng kinh nghiệm đau đớn rằng mình không biết yêu, nghĩa là mình không có khả năng yêu mến chẳng những người anh em mà còn cả Thiên Chúa nữa. Dù nói hay nói đẹp thế nào thì ta cũng vẫn không biết yêu.

Với thánh Biển Đức, khởi đầu tình yêu là một tiếng kêu, tiếng kêu bất lực và tuyệt vọng. Nhưng đó là tiếng kêu phi thường, vì nó cho thấy đan sĩ đã được lôi kéo ra khỏi chính mình, đã thoát được chính bản thân, để được gieo vào lòng Chúa. Kinh nghiệm yêu thương là kinh nghiệm của cái vỏ sò vỡ ra, của một công trình xây dựng sụp đổ, của sự mỏng dòn và dễ bị tổn thương đến tột độ, nơi mà rốt cuộc thì sức mạnh của Thiên Chúa được biểu dương.

Như thánh Biển Đức nói trong câu sau cùng (c.70), giai đoạn này chính là lúc ta cảm nghiệm được quyền năng của Thánh Thần. Chỉ mình ngài có thể giúp ta quyết tâm, giúp ta vượt qua vực thẳm. Chính khi ta không còn làm gì hơn được nữa thì Thiên Chúa lại có thể hướng dẫn cuộc đời ta.

Chương 8

GIỜ THẦN VỤ BAN ĐÊM

Ngày 10.2 – 11.6 – 11.10

1 Về mùa đông, nghĩa là từ đầu tháng mười một đến lễ Phục Sinh, đan sĩ thức dậy vào giờ thứ tám ban đêm. 2 Như vậy, xét ra là hợp lý khi để anh em ngủ quá nửa đêm và thức ăn cũng tiêu hoá xong. 3 Thời gian còn lại sau Kinh Đêm, anh em nào cần sẽ dùng để học hỏi Thánh Kinh và các bài đọc. 4 Từ lễ Phục Sinh đến tháng mười một, phải liệu sao để sau giờ Kinh Đêm còn khoảng thời gian vắn cho anh em có thể đi việc cần, rồi bắt đầu giờ Kinh Sáng ngay lúc rạng đông.

Chú giải:

A – Ngày 10.2

Giờ Thần tụng ban đêm là một trong những thời gian quan trọng nhất trong ngày sống của đan sĩ. Trong thinh lặng của màn đêm, khi thế gian đang ngon giấc, đan sĩ đứng canh thức giữa tối tăm mịt mù. Canh thức là nét đặc thù nền tảng của ơn gọi đan tu. Nó diễn đạt ba yếu tố trong tư thế đầu tiên của cuộc đời ta, đó là chăm chú, đợi chờ, khát khao.

Chăm chú: Giữa tiếng ồn ào của thế gian, giữa những tư tưởng và ham muốn hỗn loạn, Chúa mời gọi ta dấn thân vào một cuộc chiến đặc biệt, đó là chiến đấu để biết chăm chú. Đôi lúc ta có thể nản lòng, khi bị chìm ngập bởi đủ loại tư tưởng. Ta thường không thể chống lại được chúng. Nhưng điều ta có thể làm đó là đứng vững trong đêm tối, như tảng đá bị sóng nước liên tục tràn phủ, nhưng sau mỗi đợt sóng nó lại nhô lên.

Đợi chờ: Ta đợi chờ Đấng phải đến. Dĩ nhiên, điều quan trọng là sống đầy đủ những gì ta được yêu cầu, là luôn có mặt. Nhưng tất cả chỉ là tạm thời, mau qua. Ơn gọi của ta chính là đợi chờ. Ban đêm là thời gian tuyệt vời để chờ đợi. Chính vì thế, trong truyền thống Xitô, đan sĩ canh thức về đêm. Sau Kinh Đêm họ đọc sách ở phòng học chung hay ở nhà thờ, dành hết tâm tư cho Lời Chúa.

Khát khao: Sau cùng là khát khao. Vì nỗi khát khao Thiên Chúa, ta phải trải qua nhiều đêm tối, nhiều hố sâu, để giũ bỏ những ảo tưởng hỗn độn, những nhu cầu ích kỷ của ta. Chúng cần phải được phát hiện và được thanh tẩy. Ta khao khát bao nhiêu sự không phải là Chúa, chúng chẳng đưa ta tới đâu. Đêm tối giữ vai trò quan trọng trong việc thanh lọc những khát vọng đó để làm nảy sinh khát vọng đích thực về Thiên Chúa. Giờ Kinh Đêm và thời gian tiếp theo được cống hiến cho ta để sống ba yếu tố vừa nói trên đây: chăm chú, đợi chờ, khát khao. Nhưng ta có lợi dụng được không?

B – Ngày 11.6

Giờ thần vụ ban đêm là giờ kinh giúp ta cảm nghiệm được cộng đoàn đan tu ấp ủ và nâng đỡ ta biết chừng nào. Nhưng ngược lại đó cũng là lúc ta cảm thấy rõ ràng tầm quan trọng của mỗi thành viên, là lúc ta cần đến sức mạnh chung, lúc ta thấy sự vắng mặt của một anh em có ảnh hưởng tới mình hơn những giờ khác.

Như vậy, giờ thần vụ là một trong những thời gian ta vừa cảm nghiệm được sự mỏng dòn yếu đuối của mình, vừa cảm nghiệm được sức mạnh mà sự hiệp nhất mang lại cho ta. Giờ thần vụ cũng là lúc ta cảm nghiệm được sâu sắc rằng ta hợp thành một thân thể, một thân thể chuyên lo cầu nguyện.

Cảm nghiệm đó nhiều người ở xa ta cũng có được, theo cách của họ. Bao nhiêu lần đã có những người phải chạy xe trên xa lộ lúc 3 giờ sáng, hay những người mất ngủ chia sẻ với tôi một tư tưởng đã tăng cường sức lực cho họ, đã giúp họ thêm can đảm, đó là: “Giờ này các đan sĩ đang cầu nguyện”.

Tất nhiên ta không đi đọc Kinh Đêm trước hết là vì những người ấy, nhưng nghĩ đến họ có lẽ ta cũng được nâng đỡ khi biết rằng không chỉ có Chúa đang chờ đợi ta, mà còn có những người anh em đang làm việc, đang vất vả trong đêm để ta trở thành Giáo Hội.

C – Ngày 11.10

Thánh Biển Đức dành những chương 8 đến 11 để nói về giờ kinh ban đêm. Trước khi ấn định chi tiết giở Kinh Đêm, từ chương 9 đến 11, thánh nhân trình bày trong chương 8 một vài nguyên tắc chính. Nguyên tắc thứ nhất: giờ Kinh Đêm được cử hành vào quãng nửa đêm (c.2). Nguyên tắc thứ hai: sau giờ Kinh Đêm là thời gian học hỏi và đọc sách (c.3).

Sau đó, thánh Biển Đức xét đến những hoàn cảnh đặc biệt liên quan tới các mùa trong năm hay tới những lý do khác. Nhưng điều này không ảnh hưởng gì tới hai nét đặc thù của giờ kinh nguyện đan tu ấy: đó là giờ kinh được cử hành ban đêm và có liên hệ mật thiết với Lời Chúa, với việc đọc lời Chúa (lectio divina).

Về điểm thứ hai: Tổng tu nghị của chúng ta đã có một chút điều chỉnh nơi một khoản trong thói lệ khi thêm việc đọc lời Chúa (lectio divina) vào sau việc suy niệm: “Viện phụ hãy lo liệu để mỗi ngày anh em có thời gian suy niệm và đọc lời Chúa”. Đây không phải chỉ là điều chỉnh một chi tiết nhưng là một xác quyết về mối liên hệ tự nhiên giữa kinh nguyện kitô giáo và Thánh Kinh.

Khi cầu nguyện, người môn đệ Chúa Giêsu không đi tìm mình, nhưng tìm một Đấng Khác. Lời mạc khải cốt yếu trình bày về cuộc gặp gỡ Đấng Khác. Chính trong cuộc gặp gỡ này ta mới biết được mình là ai. Khi không ngừng lôi kéo ta ra khỏi chính mình, khỏi những bận tâm, những lo lắng, Lời thúc đẩy ta lên đường, mời gọi ta lắng nghe. Lời cứu ta khỏi co cụm lại nơi mình, khỏi khô chồi cằn cỗi.

Chương 9

PHẢI ĐỌC BAO NHIÊU THÁNH VỊNH

TRONG GIỜ KINH ÐÊM

Ngày 11.2 – 12.6 – 12.10

1 Về mùa đông, trước hết đọc ba lần câu “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, để con cất tiếng ngợi khen Ngài”. 2 Sau đó đọc Thánh Vịnh 3 với Vinh Danh, 3 rồi Thánh Vịnh 94 với tiền ca, hoặc ít nhất cũng phải hát. 4 Tiếp đến là thánh thi và sáu Thánh Vịnh với tiền ca. 5 Xong các Thánh Vịnh ấy và các câu xướng đáp, viện phụ ban phép lành. Mọi người ngồi xuống, anh em lần lượt đọc ba bài đọc để sẵn trên giá sách, sau mỗi bài đều có đáp ca. 6 Hai đáp ca đầu không có Vinh Danh, nhưng sau bài đọc thứ ba, ai hát sẽ xướng Vinh Danh; 7 người hát vừa cất tiếng, mọi người đứng dậy ngay để tỏ lòng cung kính tôn thờ Chúa Ba Ngôi. 8 Sách đọc trong giờ Kinh Đêm là Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Cũng đọc những bài chú giải của các Giáo Phụ thời danh, chính thống và công giáo. 9 Sau ba bài đọc với đáp ca, hát thêm sáu Thánh Vịnh nữa với tiền ca Alleluia. 10 Sau cùng đọc thuộc lòng một đoạn sách của thánh Tông Đồ, rồi xướng đáp, lời cầu. 11 Thế là xong giờ Kinh Đêm.

Chú giải:

A – Ngày 11.2

“Một buổi sáng và một buổi chiều, đó là ngày thứ nhất” (St 1,5). Câu này đặt công việc sáng tạo vào ban đêm, trong bóng tối. Tất cả đều khởi đầu trong bóng tối, trong hỗn mang mịt mù. Đó là cái luận lý của việc tạo dựng mà thánh Biển Đức dựa theo để trình bày về thần tụng. Như một cuộc tạo dựng mới, ngày sống của đan sĩ khởi đầu từ giữa đêm bằng giờ kinh Dạ tụng.

Tiếng kêu đầu tiên thốt ra trong đêm tối là để cầu xin Chúa làm cho lời ngài vang lên từ cõi hỗn mang của lòng trí ta còn đang say ngủ: “Lạy Chúa, xin mở miệng con để con vang tiếng ngợi khen Ngài”. Hẳn là những lời đầu tiên của sách Sáng Thế được áp dụng cho tâm trí ta vào lúc khởi đầu Kinh Đêm: “Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2).

Nhưng Thiên Chúa không dừng lại ở đó, cả ta nữa, nếu ta để cho mình được quyền năng của Thần Khí Thiên Chúa chiếm đoạt, ta cũng không dừng lại ở cõi hỗn mang mịt mù nơi bản thân biếng nhác của ta. Khi tạo dựng thế giới, Thiên Chúa truyền cho ánh sáng bừng lên: “Hãy có ánh sáng”, và “Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi tối tăm”. Như một tạo dựng mới, phụng vụ Kinh Đêm cho ta cảm nghiệm được điều đó mỗi ngày, nếu ta muốn.

Bằng tiếng hát Thánh Vịnh, bằng lời công bố các bài đọc, Chúa đến thực hiện việc phân tách, việc “phân định” trong cuộc đời ta. Ngài đem ánh sáng của ngài tới nơi đâu vẫn còn hỗn mang và xáo trộn. Vào lúc khởi đầu ngày sống, ngài mở cho ta con đường ánh sáng, bằng Lời của ngài. Bài đọc Lời Chúa lúc khởi đầu ngày mới là lời mời gọi ta để ý phân định. Phải chăng ta thuộc vào số những người vẫn còn bị giam hãm trong những tư tưởng riêng, những nẻo đường riêng của mình? Hay thuộc số những người mở rộng tâm hồn đón nhận ánh sáng của Đấng đang tới?

B – Ngày 12.6

Hai lần, ở câu 5 và câu 7, thánh Biển Đức nói đến những tác động chung trong phụng vụ: “mọi người cùng ngồi”, rồi “mọi người cùng đứng dậy”. Ta có thể thắc mắc tại sao thánh Biển Đức lại quan tâm tới những chi tiết đó, mà xét cho cùng chẳng hệ trọng gì đối với việc cầu nguyện. Vậy đâu là lợi ích và ý nghĩa giáo dục của những tác động ấy?

Phải công nhận rằng tác động chung giúp cho phụng vụ thêm vẻ đẹp và trang trọng. Như thi sĩ kia đã nói: “Nơi đó, tất cả đều trật tự và đẹp đẽ”. Điều đó phù hợp với ý tưởng về sự hài hòa trong vũ trụ, mà triết học ngoại giáo đã nói đến. Văn minh Hy Lạp, với sự ham mê các con số, đã đưa ý tưởng ấy lên tới tột đỉnh.

Trong khi đó thì những nghi lễ Do Thái, như mô tả trong Cựu Ước hay như ta thấy ở Giêrusalem, khiến ta có cảm tưởng như một mớ lộn xộn, mỗi người làm những cử điệu tùy thích. Như vậy, trật tự và sự đồng điệu là dấu hiệu văn hóa nói lên trình độ văn minh của xã hội.

Ta có thể giả thiết, là một người Rôma thánh Biển Đức phải có sở thích về trật tự. Nhưng tôi nghĩ ngài còn có gì hơn thế nữa. Thực vậy, đàng sau những cử điệu chung kia ta có thể thấy được cả một khoa sư phạm về sự từ bỏ. Đấy là yếu tố cơ bản của đời đan tu. Nhu cầu muốn lập dị, muốn làm khác người, dù một cách vô thức, luôn luôn là dấu hiệu của một thực tại sâu xa hơn. Ta được mời gọi tự vấn để biết sáng suốt hơn đối với những động cơ thầm kín thúc đẩy mình.

C – Ngày 12.10

Với thánh Biển Đức, giờ Kinh Đêm là giờ suy niệm Kinh Thánh, trong cộng đoàn và trong Giáo Hội. Cộng đoàn và Giáo Hội là hai chiều kích cốt yếu giúp ta hiểu được tầm quan trọng thánh Biển Đức gán cho giờ kinh này. Thực vậy, trong khi việc đọc lời Chúa (lectio divina) có tính cách cá nhân và riêng lẻ thì giờ Kinh Đêm mang tính cách cộng đoàn và Giáo Hội.

Ta thấy điều đó trong hình thức cử hành phụng vụ. Cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau nghe lời Chúa và những bài chú giải, sẽ làm cho cộng đoàn dần dần được thăng tiến. Điều ấy giúp ta có một ngôn ngữ chung, một kinh nghiệm chung về Lời.

Nhưng thánh Biển Đức còn nhắm xa hơn thế nữa. Cộng đoàn đan viện là thành phần của Giáo Hội toàn cầu, mà các Giáo Phụ là những nhà giải thích được nhìn nhận và có bảo đảm. Vì thế, bài đọc các bản chú giải giữ một vai trò cốt yếu. Thực vậy, không phải kinh nghiệm cá nhân giúp ta hiểu Thánh Kinh, nhưng Thánh Kinh được các Giáo Phụ giải thích sẽ giúp ta hiểu phải sống như thế nào.

Đặc điểm cốt yếu của thần vụ là ở chỗ đó. Ta không giải thích Thánh Kinh bằng kinh nghiệm riêng, nhưng ta sống Lời Chúa theo như các Giáo Phụ đã giải thích. Không phải ta giải thích Lời Chúa, nhưng Lời Chúa giải thích cuộc sống của ta, Lời Chúa trở thành vai chính trong phụng vụ. Giữa đêm khuya Lời Chúa đến với ta qua tiếng của Giáo Hội.

Chương 10

ĐỌC KINH ÐÊM

TRONG MÙA HẠ THẾ NÀO?

Ngày 12.2 – 13.6 – 13.10

1 Từ lễ Phục Sinh đến đầu tháng 11, giờ Kinh Đêm cũng đọc đủ số Thánh Vịnh như đã nói trên, 2 ngoại trừ các bài đọc, vì lẽ đêm ngắn; nhưng thay vào đó, chỉ đọc thuộc lòng một bài Cựu Ước, theo sau là đáp ca. 3 Phần còn lại vẫn giữ như trên, nghĩa là ngoài Thánh Vịnh 3 và 94, không bao giờ đọc dưới mười hai Thánh Vịnh.

Chú giải:

A – Ngày 12.2

“Vì lẽ đêm ngắn”. Một trong những nét thiên tài của thánh Biển Đức đó là khả năng thích ứng với những trường hợp khác nhau, như về thời gian, nơi chốn, trang phục, đồ ăn thức uống v.v. Ngài thể hiện khả năng ấy chẳng những khi qui định về thần tụng như trong chương 10 này, mà còn cả khi đề cập tới việc may mặc là dùng thứ vải dễ dàng sắm được trong vùng, hay tới những bữa ăn thích hợp cho từng mùa, và thức uống thì không luôn luôn phải có rượu, hoặc tới công việc đồng áng khi đan sĩ phải tham gia v.v.

Về thần tụng, thánh Biển Đức quan tâm đến nhiều chi tiết khác nhau. Như ở chương này, ngài để ý tới thời gian dài ngắn ban đêm, nhưng cũng tới cả việc anh em ở gần hay xa nhà nguyện khi báo hiệu giờ kinh, hay khi anh em đi đường hoặc ở xa đan viện. Viện phụ cũng phải có khả năng thích ứng để xét tới tính khí và tư chất mỗi anh em.

Thánh Biển Đức đề nghị phải luôn luôn giữ thế quần bình giữa qui luật và việc thích ứng qui luật vào thực tế. Ngài nêu cho ta hai thái cực cần phải tránh. Một đàng, áp dụng tu luật như một cùng đích, điều ấy có thể đưa tới chủ trương quá nghiêm ngặt. Đàng khác, áp dụng luật theo thị hiếu hay sở thích nhất thời, điều ấy có thể dẫn tới chủ trương quá dễ dãi. Hai thái cực này là triệu chứng của hai thứ bệnh tâm hồn mà Chúa Giêsu đã phải chống lại.

Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu vừa chống lại những người pharisiêu chuyên bắt bẻ những chuyện liên quan đến các chi tiết nhỏ nhặt, vừa chống lại Hêrôđê, những người phái sađốc, các con buôn trong Đền thờ, tất cả đều sẵn sàng đồng lõa với tinh thần thế tục. Hai thái cực ấy đã cấu kết với nhau để gây nên cái chết của Chúa Giêsu, vì chúng không thể chịu được thái độ của ngài, một thái độ vừa tuyệt vời tự do vừa rất mực trung thành với lề luật. Đó là điều mà Cassianô gọi là con đường vương giả, vì là con đường Chúa Giêsu đã đi.

B – Ngày 13.6

Khi thánh Biển Đức nói về cầu nguyện, ta thấy một chi tiết có thể khiến ta bị sốc, đó là ngài nhấn mạnh tới số lượng. Ở đây là số lượng Thánh Vịnh trong giờ Kinh Đêm. Trong khi đó thì ngày nay người ta để ý tới chất lượng hơn. Nhưng phải xác định chất lượng như thế nào? Khi chọn theo tiêu chuẩn số lượng thánh Biển Đức không chiều theo sự dễ dãi, nhưng ngài muốn lưu ý ta về hai phương diện cốt yếu của cầu nguyện.

Phương diện thứ nhất, đó là chất lượng của cầu nguyện không lệ thuộc vào tình cảm chủ quan của ta. Việc cầu nguyện đích thực được diễn ra từ trong tâm hồn, mà hiếm khi ta ý thức được. Đó là công việc của Thần Khí nơi ta, họa chăng mới có lúc ta nhận thấy. Nhưng không phải vì thế mà ta không cầu nguyện và không được biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện. Thần Khí vẫn hằng cầu nguyện trong ta.

Như vậy, phương diện thứ hai là chất lượng của cầu nguyện có liên hệ với tâm trạng thích hợp, sự kiên trì và siêu thoát nội tâm của ta. Điều ta cần làm là dẹp đi những trở ngại trong tâm trí, con tim và cuộc sống, để việc cầu nguyện hoạt động được nơi ta. Và nếu ta để mình được biến đổi thì toàn thân ta, cộng đoàn ta và Giáo Hội cũng biến đổi theo.

Như vậy, đối với thánh Biển Đức, cầu nguyện là công việc lâu dài cần phải có những qui định về số lượng. Ta có thể sánh ví với việc phơi nắng. Muốn có làn da rắn rỏi, cần phải phơi nắng trong nhiều giờ. Chỉ có điều khác nhau là chưa bao giờ nghe nói có ai bị “cảm vì cầu nguyện”, còn “cảm nắng” thì vẫn thường xẩy ra.

C – Ngày 13.10

Khi thế gian say ngủ và khi những cuộc chiến như bớt ác liệt trong chốc lát, thì đan sĩ vẫn có mặt, như một người canh đêm, để cừ hành điều mà thánh Biển Đức gọi bằng một cụm từ rất đẹp “kinh ca ngợi ban đêm”. Vì cả ban đêm, đan sĩ cũng ca ngợi  Chúa.

Đó là ban đêm theo nghĩa thông thường, và đó là nghĩa mà chương mười này muốn hiểu. Nhưng có lẽ, theo nghĩa biểu tượng, cũng có thể hiểu là đêm của nghi nan, thử thách, bệnh tật và yếu đuối. Và người ta thường bị cám dỗ co cụm lại với những thử thách, những khó khăn mà quên mất phải ca ngợi Chúa.

Ca ngợi Chúa khi ta hoàn toàn thoải mái, khi cộng đoàn nao nức nhiệt tình, khi các ơn gọi đông đảo, khi Tin Mừng xem ra mang lại nhiều hoa trái, thì thật là dễ dàng. Ta chỉ việc để tâm hồn bay bổng lên cao theo lời ca tiếng hát.

Nhưng ca ngợi Chúa khi mọi sự xem ra bất trắc, khi nghi nan, mệt mỏi đè nặng trên ta, khi cộng đoàn dường như muốn tan rã, khi tương lai mù mịt, theo cái nhìn của con người… thì chẳng khác nào một cuộc mạo hiểm, một trò đánh cược đáng sợ.

Tuy nhiên, suy nghĩ cho rốt ráo, ta sẽ thấy ca ngợi Chúa ban đêm là hành vi đức tin tinh tuyền nhất, đó là dám tin rằng từ những hòn đá kia Thiên Chúa có thể làm nẩy sinh con cái cho Abraham. Nhưng đó cũng là tin tưởng cách điên rồ rằng “ngài sẽ đến”, “ngài sẽ xuất hiện như bình minh”, và ngài yêu thương ta vô cùng thắm thiết hơn ta có thể tưởng. Và bởi vì trót cuộc đời  ta không phải là do con người tạo nên, nhưng là công trình của ngài. Thế thì ta còn sợ chi? Hãy nghe theo tiếng ngài mời gọi, hãy ca ngợi ngài ban đêm. Đừng sợ nữa.

Chương 11

PHẢI CỬ HÀNH KINH ĐÊM THẾ NÀO ?

Ngày 13.2 – 14.6 – 14.10    

1 Chúa nhật, ta đọc Kinh Đêm sớm hơn ngày thường. 2 Cách thức sắp đặt thế này: sau khi hát sáu Thánh Vịnh và xướng đáp như đã nói trên, mọi người cứ thứ tự và hàng lối mình ngồi xuống rồi đọc bốn bài đọc với đáp ca như đã nói, 3 chỉ sau đáp ca bốn mới có Vinh Danh; khi bắt đầu Vinh Danh, mọi người đứng dậy với lòng cung kính. 4 Sau bốn bài đọc ấy, lần lượt hát sáu Thánh Vịnh với tiền ca và xướng đáp như trên. 5 Kế đó lại đọc bốn bài đọc khác với đáp ca cũng theo thứ tự trên. 6 Rồi đọc thêm ba Thánh Ca các ngôn sứ tùy như viện phụ ấn định. 7 Sau ba Thánh Ca có Alleluia, xướng đáp, và phép lành viện phụ, đọc bốn bài Tân Ước cũng theo thứ tự đã định. 8 Sau đáp ca bốn, viện phụ sẽ cất kinh Te Deum. 9 Hát xong, viện phụ đọc Phúc Âm; mọi người cung kính đứng nghe. 10 Sau Phúc Âm, anh em thưa Amen, rồi viện phụ cất tán tụng ca Te decet, và khi đã ban phép lành xong, liền bắt đầu giờ Kinh Sáng. 11 Thứ tự giờ Kinh Đêm Chúa nhật mùa hạ cũng như mùa đông đều như nhau. 12 Nhưng khi anh em dậy muộn – ước chi đừng có như thế –  thì phải rút bớt chút ít các bài đọc hay đáp ca. 13 Hãy cẩn thận đừng để xảy ra như thế. Nếu vì sơ xuất thì người nào chịu trách nhiệm về sự bê trễ đó phải làm việc đền tội cho cân xứng nơi nhà nguyện.

Chú giải:

A – Ngày 13.2

         Kinh Đêm Chúa nhật được cử hành long trọng như ngày đại lễ. Cộng đoàn thức dậy sớm hơn, có thêm alleluia và Te Deum. Thời gian được dành nhiều hơn cho một giờ kinh dài hơn. Với thánh Biển Đức, thức dậy ban đêm không phải là để hy sinh hãm mình, nhưng là để cử hành một cuộc lễ. Trong giờ cử hành này, lời kinh tiếng hát chan hòa một niềm vui đặc biệt.

Khi biết ta thức dậy vào giờ này, nhiều người thường tỏ vẻ ngạc nhiên và cho là cực khổ quá. Nếu nghe nói giờ kinh ấy kéo dài ít ra một tiếng rưỡi thì người ta lại càng không biết dùng lời nào để bày tỏ lòng thương hại ta nữa mà chỉ còn biết thốt lên: “Chúa ơi, như thế thì chịu sao nổi!”

Tuy nhiên, khi được ơn tham dự giờ Kinh Đêm mỗi ngày, khi nếm hưởng sự bình an, sự hòa điệu nhịp nhàng của giờ kinh ấy, ta mới hiểu rằng tham dự giờ kinh ấy là một hồng ân ta không tự mình mà có được.

Có những điều ta chỉ hiểu được khi đã trải qua. Đời sống đan tu là một toàn thể duy nhất. Không có giờ Kinh Đêm, rồi thời gian đọc sách và cầu nguyện theo sau đó thì có nguy cơ mất đi sự liên kết sâu xa giữa các yếu tố của đời đan tu. Chính khoảng thời gian ban đêm này sẽ làm cho tất cả những gì sẽ diễn ra ban ngày có được chiều kích sâu xa và trong sáng. Nếu không, ta sẽ có nguy cơ chỉ sống theo bề mặt và không còn hiểu được ý nghĩa và định hướng của đời ta nữa.

B – Ngày 14.6

Với thánh Biển Đức, cao điểm của giờ Kinh Đêm là bài Phúc Âm do viện phụ công bố, “mọi người cung kính đứng nghe” (c.9). Rồi thánh nhân ấn định phải bắt đầu Kinh Sáng ngay. Quả thực, bài đọc Phúc Âm được coi như điểm tiếp giáp giữa đêm và ngày, giữa thời gian canh thức ban đêm và thời gian ca ngợi ban sáng.

Ngày nay điểm tiếp giáp này không còn thấy nữa, vì giờ Kinh Đêm ngắn hơn xưa. Tuy thế, ở một số cộng đoàn, thời gian chuyển tiếp giữa đêm và ngày được tượng trưng bằng việc thắp nến phục sinh và bằng ánh sáng điện trong ca tòa. Chúa Kitô là ánh sáng đến soi chiếu ta, những kẻ đang chờ đợi.

Điều ấy đúng trước hết cho sự chờ đợi của Israel, được biểu lộ qua các Thánh Vịnh và các bài đọc Cựu Ước. Điều ấy đúng cho sự đợi chờ của Giáo Hội trong các bản văn trích từ Tân Ước. Nhưng cũng đúng cho cuộc đời ta. Thực vậy, thường khi, cộng đoàn hay cá nhân, ta thấy mình đang chờ đợi trong đêm.

Về phía cộng đoàn thì những tình trạng bấp bênh, những khó khăn trong các mối tương quan giữa anh em, những bế tắc, tất cả những gì làm cho cuộc sống chung hóa ra ảm đạm. Nhưng về phía cá nhân nữa, thử thách, nghi nan, chán nản, tất cả dồn dập xẩy ra sau thời gian hứng khởi ban đầu. Ta thường cảm thấy như bị tối tăm bao phủ. Vì thế, không phải vô lý mà mỗi Chúa nhật thánh Biển Đức mời gọi ta cảm nghiệm rằng Phúc Âm là chìa khóa duy nhất mở cho ta cửa đi từ tối tăm ra ánh sáng.

C – Ngày 14.10

Trong thần vụ ngày Chúa nhật có một thời điểm để thánh Biển Đức nhấn mạnh đặc biệt khi nói: “Hát xong (Te Deum), viện phụ đọc Bài Phúc Âm, mọi người đứng nghe với lòng kính sợ” (c.9). Khi nói đến lòng kính sợ ở đây, thánh Biển Đức tạo cho thời điểm phụng vụ này một vẻ trang trọng đặc biệt. Một điều gì quan trọng đang xẩy đến, và thánh Biển Đức nhấn mạnh: Phúc Âm sắp được công bố.

Quả thực, có một mâu thuẫn lớn trong phụng vụ đan tu của ta: đó là so với toàn bộ Thánh Kinh thì ta sử dụng Phúc Âm rất ít. Và khi nào đọc Phúc Âm thì đều có những thái độ bên ngoài biểu lộ lòng tôn kính trong những giây phút khác thường đó.

Ngoài những lý do phụng vụ, tôi muốn nói tới những lý do thiêng liêng của thái đô này. Khi Phúc Âm được công bố, thì một điều cốt yếu nào đó đang xẩy ra. Điều được loan báo trong Thánh Kinh, điều được che giấu dưới những hình ảnh, những mầu nhiệm (như các Giáo Phụ nói) đang được biểu lộ, được phơi bày ra ánh sáng, để hoàn thành. Những gì ta không hiểu trong các Thánh Vịnh, các bài đọc Cựu Ước cũng như Tân Ước, đều được sáng tỏ.

Thái độ mà thánh Biển Đức nhấn mạnh trong câu 9 chính là thái độ của các môn đệ trên đường Emmau, đang mỏi mệt, chán nản, chẳng hiểu gì về những điều vừa xẩy đến, những điều họ đã mắt thấy tai nghe. Và này Chúa Giêsu xuất hiện giữa các ông, mở lòng trí cho các ông hiểu được Thánh Kinh. Tất cả những câu Thánh Vịnh rối rắm như một mớ lộn xộn bỗng dưng có vị trí hài hoà trong bức tranh cứu độ bao la. Cũng vậy, dáng vẻ bề ngoài gây sốc của những gì xẩy đến cho ta đã được am hiểu nhờ mầu nhiệm Chúa Kitô, đấng lôi kéo mọi sự đến với mình, kể cả từng mảnh vụn cuộc sống con người ta.

Chương 12

PHẢI CỬ HÀNH TRỌNG THỂ

KINH SÁNG THẾ NÀO ?

Ngày 14.2 – 15.6 – 15.10     

1 Giờ Kinh Sáng Chúa nhật, trước tiên đọc Thánh Vịnh 94 không có tiền ca. 2 Tiếp đến Thánh Vịnh 50 với Alleluia; 3 rồi Thánh Vịnh 117 và 62; 4 sau đó là các Thánh Ca chúc tụng và các Thánh Vịnh tán tụng, rồi hát thuộc lòng một đoạn sách Khải Huyền với đáp ca, thánh thi Ambrosianô, xướng đáp, Thánh Ca Tin Mừng và lời cầu, thế là xong giờ Kinh Sáng.

Chú giải:

A – Ngày 14.2

Thoạt tiên, nếu so sánh chương 12 với chương 13 ta thấy giờ Kinh Sáng ngày Chúa nhật có alleluia, còn những giờ kinh khác trong tuần thì không. Thực vậy, nếu trong tuần đọc Tv 66, không có tiền xướng, hơi chậm một chút như Chúa nhật để mọi người đến kịp đọc Tv 50, không có tiền xướng, thì Chúa nhật lại đọc Tv 50 với alleluia.

Sau khi đọc alleluia như tiền xướng, thánh Biển Đức cho đọc Tv 117. Thánh Vịnh này là Thánh Vịnh sau cùng của loạt Thánh Vịnh gọi là Hallel, Thánh Vịnh lên Đền, tức là từ Tv 112 đến Tv 117, được bắt đầu bằng alleluia, và người Do Thái hát trong các dịp lễ lớn, nhất là sau bữa ăn Vượt Qua, như thấy nói tới ở Mt 26,30. Sự kiện ấy có lẽ xác nhận điều được nói ở đầu chương này, Chúa nhật là ngày có hát alleluia. Đàng khác, lược đồ Thánh Vịnh hiện nay còn làm tăng thêm cảm tưởng này khi thêm Tv 150 long trọng tuyên dương Triều Đại Thiên Chúa.

Tuy nhiên, việc thánh Biển Đức đưa Tv 62 vào (để thay Tv 50 trong những ngày lễ trọng) gợi cho ta thấy một nhãn giới khác. Thực vậy, dường như qua việc tuyên dương vinh quang Thiên Chúa, thánh Biển Đức còn muốn đưa ta vào một chiều kích khác. Tv 62 là Thánh Vịnh nói lên nỗi khát khao: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Tâm hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông”. Vương quốc đã ở đó, nhưng ta vẫn khát khao, vẫn đợi chờ. Vả lại đó là ý nghĩa đoạn sách Khải Huyền (mà ta đưa vào phụng vụ).

Chúa Kitô đã phục sinh, alleluia, nhưng tạo thành vẫn còn rên xiết, cả ta cũng rên xiết, như đang sinh nở. Đưa Tv 62 vào, sau khi tôn dương vinh quang Chúa, thánh Biển Đức mở ra cho việc cầu nguyện của ta những chân trời vô tận. Khi khơi dậy nơi ta lòng khát khao Thiên Chúa, càng ngày càng mãnh liệt hơn, ngài mời gọi ta cất bước, dấn thân vào con đường hoán cải, chứ đừng ở lại mãi tình trạng hiện thời nữa.

B – Ngày 15.6

Ngày Chúa nhật, Thánh Vịnh 50 có một vị trí đặc biệt. Ta hát Thánh Vịnh này trong giờ Kinh Sáng và cả trong thánh lễ khi làm phép nước. Đây là một Thánh Vịnh sám hối, nhưng ở câu 2 của chương này thánh Biển Đức cho ta thấy một viễn cảnh đặc biệt khi ngài bảo hát Thánh Vịnh 50 “với Alleluia”.

Sám hối, thú tội chính là tôn vinh Thiên Chúa. Vì đó là gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, là cảm nghiệm lòng nhân từ của ngài đối với ta để giúp ta có thể xưng thú tội lỗi mình, bỏ đi được những mặt nạ ta cố sử dụng mà che dấu mình, như ông Ađam bà Evà tìm cách che dấu thân thể trần trụi của ông bà.

Con đường sám hối, con đường khiêm tốn nhận biết tội lỗi mình, đó chính là con đường dẫn ta trở lại địa đàng đã bị đánh mất, nơi con người có thể sống mà không sợ hãi, dưới cặp mắt của Thiên Chúa. Và Thánh Vịnh 50 trao tặng ta bí quyết để trở về với Thiên Chúa, qua hành trình sám hối của vua Đavít.

Thực vậy, đối với thánh Augustinô, đó là Thánh Vịnh vua Đavít đã xướng lên khi tiên tri Nathan nói cho vua biết tội lỗi của vua. Đối với ta cũng thế, Thánh Vịnh này chẳng khác nào như một lời tiên tri. Nó cất đi bức màn mù quáng, kiêu ngạo của ta, để phơi bày ta trước tôn nhan Thiên Chúa. Nếu ta để cho Thánh Vịnh ấy thấu nhập tâm hồn mình, nếu ta trầm mình vào vực thẳm sám hối, ta cũng có thể hát lên lời Alleluia của những con người được cứu khỏi tình trạng mù lòa, những con người được Thiên Chúa giải thoát khỏi chính bản thân họ.

C – Ngày 15.10

Sách Khải huyền là cuốn sách đọc vào ngày Chúa nhật! Điều đó đặt ngày Chúa nhật dưới dấu hiệu của thời cuối cùng. Sắc thái đặc biệt ấy làm cho ngày Chúa nhật trở thành như cây cầu dẫn vào vĩnh cửu. Chúa nhật là ngày của cái đang có và của cái chưa đến. Đó là ngày cho ta thưởng thức trước hương vị của Nước Trời.

Tất cả đều qui hướng về ngày Chúa nhật: nghỉ ngơi sau một tuần vất vả, cử hành phụng vụ trọng thể hơn, và sau cùng một bữa ăn huynh đệ trong tâm tình cảm tạ vì được cùng nhau sum vầy.

Tuy nhiên, như ta đều thấy, một lúc nào đó, không dễ dàng gì bỏ được những công việc của mình để đón nhận tác động của hồng ân ngày Chúa nhật. Ta bị cám dỗ muốn làm những chuyện gì khác, hoàn toàn khác trong thời gian này.

Thật là khó mà dừng lại nhịp sống đã quen trong suốt cả tuần. Tuy nhiên, ta cần phải học cho biết dừng lại. Nếu không, ta sẽ rất dễ bị đồng hóa với những gì mình làm, tới độ quên đi mất căn tính sâu xa của mình. Ngày Chúa nhật là thời gian giúp ta gặp mình, như bước đầu dẫn ta đến gặp Chúa.

Chương 13

PHẢI CỬ HÀNH KINH SÁNG

NGÀY THƯỜNG THẾ NÀO?

Ngày 15.2 – 16.6 – 16.10    

1 Các ngày thường đọc Kinh Sáng như sau: 2 Thánh Vịnh 66 không có tiền ca, đọc chầm chậm cho mọi người đến kịp đọc Thánh Vịnh 50 với tiền ca. 3 Sau đó là hai Thánh Vịnh khác như thường lệ nghĩa là 4 thứ hai đọc Thánh Vịnh 5 và 35; 5 thứ ba đọc Thánh Vịnh 42 và 56; 6 thứ tư đọc Thánh Vịnh 63 và 64; 7 thứ năm đọc Thánh Vịnh 87 và 89; 8 thứ sáu đọc Thánh Vịnh 75 và 91; 9 thứ bảy đọc Thánh Vịnh 142 và Thánh Ca trích trong sách Đệ Nhị Luật, chia làm hai đọc với kinh Vinh Danh. 10 Các ngày khác, mỗi ngày có Thánh Ca riêng lấy trong sách ngôn sứ như Giáo Hội Rôma quen đọc. 11 Tiếp đến là các Thánh Vịnh chúc tụng, đọc thuộc lòng một đoạn trong thư thánh Tông Đồ, đáp ca, thánh thi Ambrosianô, xướng đáp, Thánh Ca Tin Mừng, lời cầu, thế là xong giờ Kinh Sáng.  

Chú giải:

A – Ngày 15.2

Trong phụng vụ, có những ngày thường và những ngày khác thường. Diễn ngữ la tinh được thánh Biển Đức dùng thật là thú vị, bởi vì về những ngày thường ngài nói là “privatis diebus”, những ngày “không có”, trái ngược với những ngày “có” (kính) các thánh. Như thế, trong phụng vụ, có những ngày “có” và những ngày “không có”.

Những ngày “không có” thì đơn giản hơn. Những ngày đó giống như mùa chay thiêng liêng của linh hồn, thiếu những điểm mốc là lễ kính thánh hay những lễ trọng thể. Những ngày đó giống như khoảng trống giữa các từ trong một bản văn, giúp ta hiểu được nghĩa của bản văn ấy. Vì nếu tất cả các từ bị dính liền nhau, ta sẽ rất khó mà nhận ra được nghĩa của bản văn.

Như vậy, cốt yếu là những ngày “không có”. Những ngày này được coi như thời gian để tiêu hóa, để nghiền ngẫm, nhưng cũng để đợi chờ, thời gian để cho khát vọng nảy sinh. Khoảng thời gian này tối cần thiết để tránh bị bội thực và để giữ nhịp đều hòa cho đời sống nội tâm.

Trong sa mạc, điều khiến người ta mong mỏi gặp suối, điều thôi thúc người ta đi tìm giếng nước đó là vì chúng rất hiếm hoi. Những ngày “không có” là thành phần của sa mạc cuộc đời ta. Những ngày ấy cần thiết cho nhịp đều hòa của đời sống thiêng liêng nơi ta, vì duy trì trong ta sự chờ đợi và lòng khát khao. Đó là những động cơ của đời sống nội tâm. Hay đúng hơn, đó là những khoảng không gian hoang dã, trơ trụi, là sa mạc của con tim, nơi đó Thiên Chúa có thể nói cho ta nghe tiếng ngài. Chính vì có những điều bình thường, nên mới có những điều khác thường.

B – Ngày 16.6

Phải thú nhận là khi đọc phần tu luật này người ta cảm thấy như bị ngộp thở bởi những bảng liệt kê thật dài các Thánh Vịnh được phân phối cho các giờ thần vụ. Và người ta không thể không tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại bỏ công nói về nhiều chi tiết như vậy, trong khi ta mong ngài nói kỹ hơn về cầu nguyện. Ngài đã chẳng quan tâm nhiều đến số lượng hơn là phẩm chất của cầu nguyện đấy sao?

Có lẽ phải kiên trì cầu nguyện lâu dài, phải trường kỳ chiến đấu trong cuộc chiến cầu nguyện, mới nhận ra được lý do đã khiến thánh Biển Đức làm như vậy. Phẩm chất của cầu nguyện, theo như ta hiểu, với những trạng thái tâm hồn phấn khởi mãn nguyện, sẽ mau chóng nhường chỗ cho những thời kỳ trống rỗng, thinh lặng, đợi chờ, lúc mà đủ loại tư tưởng và ước muốn dồn dập xuất hiện trong tâm trí ta.

Chính lúc đó ta sẽ có được một kinh nghiệm khác thường, nếu ta kiên trì cầu nguyện. Vì lúc đó, nếu không bỏ cuộc, ta sẽ cảm nghiệm được rằng không phải ta duy trì việc cầu nguyện, nhưng việc cầu nguyện giữ gìn ta.

Người ta đã nói đến một anh em mỗi ngày đều cầu nguyện nhiều giờ trong nhà thờ. Người anh em ấy không phải đã hoàn thiện, những nẻo đường anh đi không phải luôn luôn là hoàn toàn ngay ngắn. Nhưng mỗi khi cầu nguyện anh lại được đưa về với con đường anh phải đi, và anh biết thế. Anh cũng biết rằng Thiên Chúa là đấng tín trung, rằng cầu nguyện là sự bảo vệ tốt nhất cho ta, đặc biệt là bảo vệ ta khỏi chính mình.

C – Ngày 16.10        

Với thánh Biển Đức, nếu Khải Huyền là cuốn sách được đọc vào ngày Chúa nhật, thì các Thư thánh Phaolô được dành cho những ngày thường. Vậy thánh Phaolô là vị tông đồ của những ngày thường sao? Đúng thế, vì thánh nhân quan tâm đến mọi thứ trong cuộc sống, đến những sự kiện nhỏ nhặt dệt nên cuộc sống thường ngày, để nhận ra nơi đó dấu vết của Chúa.

Thực vậy, thánh Phaolô, đó là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân, với tiếng gọi hoán cải hằng ngày, nhưng cũng là cuộc sống cộng đoàn, là cách ứng xử cụ thể trong mọi tình huống. Nhưng thánh Phaolô cũng chính là hơi thở của Thần Khí phá vỡ mọi rào cản (chẳng còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà), và đặt tình yêu lên trên tất cả.

Thánh Phaolô chính là thầy dậy của cái thường ngày, giúp ta khám phá sự cao cả của mọi giây phút trong cuộc sống. Chẳng còn có gì là không đáng kể. Đồ ta ăn, thức ta uống, việc ta làm, những niềm vui ta hưởng, những nỗi khổ ta chịu, tất cả đều có chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phaolô chính là khoa thần bí về cuộc đời này, khoa thần bí về cái thường nhật.

Nhưng đó cũng là khoa thần bí về trời cao, về tầng trời thứ bảy đôi khi được biểu lộ bất ngờ, lúc ta chẳng mong đợi. Chắc hẳn đây cũng là lý do khiến phụng vụ thích đọc thánh Phaolô. Vì đối với thánh nhân, thần bí về cuộc đời và thần bí về trời cao liên kết mật thiết với nhau.

Ngày 16.2 – 17.6 – 17.10   

12 Kinh Sáng cũng như Kinh Chiều, bao giờ cũng phải kết thúc bằng kinh Lạy Cha do viện phụ đọc cho mọi người nghe, bởi vì trong đan viện thường có những va chạm xảy ra, 13 để khi nhất trí trong lời nguyện: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha”, anh em cũng được thanh tẩy các lầm lỗi của họ. 14 Còn trong các giờ kinh khác, chỉ đọc lên câu cuối cùng, để mọi người thưa: “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.

Chú giải:

A – Ngày 16.2

Chẳng đời sống cộng đoàn nào mà không có gai góc, và không cần xin ơn tha thứ, cũng như không cần phải tha thứ cho ai. Nếu không vậy, có lẽ ta nên đặt vấn đề về tính xác thực của cuộc sống ta. Vì rất là nguy hiểm khi sống trong một thứ bình an sai lạc khiến ta mờ mắt và không thật sự dấn thân trên đường Phúc Âm nữa.

Tha thứ, xin tha thứ, chỉ thực hiện được khi ta có thể lùi bước với chính mình, với vết thương ta đã phải chịu, hay với cơn nóng giận đã xâm chiếm ta. Điều đó không thực hiện một mình được, vì thường cả hai bên đều cho là mình đúng và đợi bên kia đi bước trước.

Trong chương 13 này, thánh Biển Đức cho ta bí quyết để thực hiện một tiến trình hòa giải đích thực. Việc hòa giải này luôn luôn bắt nguồn từ ước muốn sống lời Chúa Giêsu dậy, dẫu rằng đó là điều khó khăn. Khi Chúa Giêsu đến cư ngụ trong cuộc đời ta, mọi sự đều có thể, ngay cả những việc nặng nhọc và đau đớn nhất.

Vì, bằng một cách nào đó, việc hòa giải luôn luôn đòi phải khơi lại vết thương, đôi khi đã rất lâu rồi, chứ không chấp nhận một giải pháp dễ dãi. Một trong những chiều kích cốt yếu của tha thứ, đó là thinh lặng để nghe thấy được nỗi đau khổ của người khác. Điều này đôi khi đòi phải mất nhiều thời gian, nhưng khi có thể thực hiện được giữa anh em với nhau, thì đó là dấu hiệu hiển nhiên nhất cho thấy Thánh Thần đang hiện diện trong một cộng đoàn.

B – Ngày 17.6

Có những người bất cứ đi tới đâu dường như cũng để lại một vị đắng, một mùi lưu huỳnh. Dường như họ có tài nói những lời làm cho kẻ khác bị tổn thương. Dù đôi khi có kiểu cách dễ chịu, họ vẫn gieo rắc một nỗi cay đắng sâu xa, như thể muốn trả thù cái gì đó. Nhưng cũng có những người chỉ cần họ hiện diện là dường như mọi sự đều sáng lên, mặc dù đôi khi họ chẳng nói gì. Mùi hương họ để lại làm thơm lây và thoa dịu tất cả.

Tôi thường tự hỏi sao lại có sự khác biệt như thế. Tại sao có một số người dù đi đến đâu cũng không thể không gieo mầm đắng cay chua chat? Tại sao có những người khác chỉ cần hiện diện là đã làm nảy sinh an bình? Có lẽ một trong những cách giải quyết vấn đề, một vấn đề có liên quan tới các cộng đoàn đan tu chúng ta, được tìm thấy trong đoạn tu luật ở đó thánh Biển Đức chú ý tới một câu trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha”. Bí quyết đó phải chăng là sự tha thứ?

Quả thực, việc ta nhìn thế giớí, nhìn người khác, tùy thuộc rất nhiều ở cách ta nhìn mình. Chúa Giêsu đã chẳng bảo rằng việc ta được Chúa tha thứ tùy thuộc vào việc ta tha thứ cho người khác đó sao? Điều này khiến ta ngạc nhiên nhưng lại rất thực tế. Ta không thể xin hay nhận được ơn tha thứ nếu đã không bằng lòng tha thứ cho người lân cận. Chính khi bằng lòng tha thứ, ta sẽ nhận ra mình cần được tha như thế nào và đã được tha biết bao nhiêu rồi. Nhưng phải tha thứ ra sao?

Khi cố gắng tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, ta mới thấy khó biết bao, ngay cả đến không thể được nữa. Có phải gắng sức không khi mà ta cảm thấy trào lên trong lòng một nỗi hận ghê gớm như thế? Tuy nhiên, nhận ra nỗi hận chất chứa trong lòng là một hồng ân lớn lao. Vì chính khi khám phá ra vết thương thầm kín đó, nỗi oán hận đó, khiến cho tâm hồn ta trở nên cằn cỗi, mà, nhờ ơn thánh, ta có thể tha thứ và nhận ra mình cần được tha thứ. 

C – Ngày 17.10

Nếu sách Khải huyền được đọc vào ngày Chúa nhật và các thư thánh Phaolô được dành cho ngày thường, thì lời kinh của Phúc Âm, kinh Lạy Cha, được đọc mỗi ngày. Có lẽ vì đọc nhiều mà ta không còn ý thức được tất cả nội dung phong phú của lời kinh này nữa. Vì thế, thánh Biển Đức đã nhấn mạnh đến ở câu 12 và 13.

Ngài nêu lên hai lý do chính: Thứ nhất, đó là “những cái gai, những ác ý thường len lỏi trong đời sống cộng đoàn cần phải được nhổ đi, phải được thanh tẩy. Tác dụng đầu tiên của kinh Lạy Cha là giúp ta ý thức được những vết thương ta đã gây ra cũng như những vết thương ta đã phải chịu. Thiết yếu phải nhận thức được điều xấu ta đã làm cho người khác và cả điều xấu người khác làm cho ta.

Lý do thứ hai thánh Biển Đức nêu lên để ta đọc kinh Lạy Cha đó là ta cần được tha thứ. Ở câu 13 ngài nói: “Để khi nhất trí trong lời nguyện: ‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha’, anh em cũng được thanh tẩy các tội lỗi của họ”. Điều này liên hệ tới lời khấn canh tân, canh tân cuộc sống, mà ta phải thực hiện mỗi ngày.

Chấp nhận nhìn thẳng vào những vết thương ta gây ra cho người khác cũng như những vết thương ta phải hứng chịu rồi sẵn sàng tha thứ, đó là ý nghĩa của lời khấn canh tân ta đã tuyên hứa trong ngày khấn dòng. Có lẽ không vô ích nếu ta tự vấn xem mình đã thực hiện lời khấn này ra sao. 

Chương 14

PHẢI CỬ HÀNH KINH ĐÊM

LỄ KÍNH CÁC THÁNH THẾ NÀO ?

Ngày 17.2 – 18.6 – 18.10          

1 Kinh Đêm ngày lễ kính các thánh và các đại lễ khác sẽ cử hành như Chúa nhật; 2  ngoại trừ các Thánh Vịnh, tiền ca, các bài đọc riêng thuộc ngày đó, nhưng vẫn giữ thứ tự như trên.

Chú giải:

A – Ngày 17.2

Nhóm từ “ngày lễ kính các thánh” là phỏng dịch diễn ngữ latinh “in nataliciis sanctorum”, có nghĩa là “ngày sinh của các thánh”. Tất nhiên đó là ngày sinh vào trời của các ngài. Ở thời thánh Biển Đức, các thánh là những đấng tử vì đạo, những chứng nhân đức tin, và người ta mừng kính ngày các ngài chịu chết vì đạo.

Có lẽ đó là lý do tại sao trên các thánh giá ở nghĩa trang của đan viện Montdescats chỉ thấy để ngày qua đời của người anh em. Điều này có cái gì thật là đẹp, đấy như thể là một ngày sinh, một khởi đầu không có cùng tận. Khi tại các nghĩa trang khác, thường người ta để hai ngày, ngày sinh và ngày qua đời, thì ở nghĩa trang Montdescats chỉ để ngày qua đời. Sự kiện ấy tự nó là một dụ ngôn về niềm hy vọng, một dấu hiệu của đức tin vào sự phục sinh.

Những anh em ở nghĩa trang phần nào giống như các thánh có hài cốt nơi bàn thờ. Những anh em ấy làm cho mảnh đất ta đang sinh sống trở nên một cửa sổ mở vào thế giới khác, vào thế giới bên kia cuộc đời này. Những anh em ấy vẫn luôn luôn là thành viên của cộng đoàn chúng ta.

Mối liên hệ phần nào gây ngạc nhiên này giữa người sống và kẻ chết mang lại cho cộng đoàn đan viện một sắc thái hoàn toàn đặc biệt. Tôi vẫn lấy làm thích thú về cách chúng ta nói tới một số anh em đã khuất như thể họ vẫn còn ở giữa chúng ta: như anh Antôn, anh Phêrô, anh Phaolô v.v. Theo cách của mình, mỗi anh em đã để lại cho cộng đoàn dấu ấn của họ. Họ góp phần vào lịch sử của cộng đoàn chúng ta và phần đóng góp của chúng ta, như họ đã biết, cũng đang ở với họ bên kia bức màn thời gian.

B – Ngày 18.6

Phụng vụ được xây dựng trên sự thay đổi giữa những ngày lễ và những ngày gọi là “ngày thường”. Nếu suy nghĩ một chút ta sẽ ngạc nhiên về chuyện đó. Thực vậy, ta được yêu cầu hân hoan, mừng lễ vào những ngày cố định, trong khi mà có lẽ vào những ngày ấy ta chẳng muốn vui tí nào. Đó là cái mâu thuẫn của phụng vụ. Vì ta có thể thích mừng lễ vào một ngày mùa chay, và giữ chay trong mùa phục sinh. Thực ra, khi qui định những ngày lễ và những “ngày thường” phụng vụ mở ra cho ta một con đường để thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Ta có thể thấy hai phương diện cốt yếu của con đường này.

Thứ nhất là phương diện khoảng cách mà phụng vụ đặt giữa điều ta cảm nhận và điều ta cử hành. Chuyện đó xem ra như chẳng có gì đáng nói, nhưng vào một thời đại mà mọi người cho rằng mình sống chân thành, thì phụng vụ lại mở ra cho ta một con đường khác. Phụng vụ mời gọi ta đi sâu hơn, sâu hơn hẳn điều ta cảm thấy, để gặp được nguồn ân sủng trào dâng nơi ta. Thay vì làm cho ta bị tha hóa, khoảng cách kia giải thoát ta khỏi cái vũ trụ nhỏ hẹp mà ta muốn tự giam mình vào. Khi đặt ta vào đúng chỗ, phụng vụ mang lại cho ta một con đường giải thoát, giải thoát khỏi chính bản thân ta.

Điều này dẫn ta tới phương diện thứ hai. Không dễ gì mà hân hoan mừng lễ khi lòng ta nặng chĩu u sầu, hay khóc than tội lỗi khi trái tim tràn trề niềm vui. Khi mời gọi ta thoát ra khỏi cái ta cảm thấy, phụng vụ mời gọi ta tiến xa thêm một bước nữa: mời ta khám phá ra sự hiệp thông, hiệp thông giữa các thánh, những người mà thánh Phaolô bảo là họ vui với người vui, khóc với người khóc.

Để tự giải thoát mình và hiệp thông với người khác cũng như với Thiên Chúa, thì ý chí và ngay cả thiện chí mà thôi chưa đủ. Ta sẽ rất mau chóng bị những tình cảm nơi ta níu kéo lại, và khi đâm ra nản lòng ta sẽ dễ dàng trách móc mọi người về điều xẩy đến cho ta. Vì thế cần phải cầu nguyện để xin ơn thánh đến đập vỡ cái vỏ giam hãm ta nơi chính bản thân ta. Phải nài xin: “Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi chính bản thân con”.

C – Ngày 18.10

Cử hành lễ kính các thánh. Ta có thể tự hỏi tại sao. Quả thật các thánh chẳng cần ta ca ngợi nữa. Như thánh Phaolô nói, ơn hưởng kiến Thiên Chúa đã làm cho các ngài toại nguyện hơn bất cứ điều gì ta có thể tưởng nghĩ được. Nếu các ngài không cần ta ca ngợi nữa thì trái lại ta vẫn cần đến gương sáng, sự khích lệ, sự quan tâm và lời cầu nguyện của các ngài.

Bởi vì nhân cách con người được hình thành nhờ việc bắt chước gương lành của người khác, như René Girard đã nói thật chí lý. Và thánh Antôn bảo chính khi hấp thụ dần dần cái tốt của tha nhân mà ta tạo nên nguồn mật thiêng liêng cho mình. Cộng đoàn đan tu được xây dựng chủ yếu trên ý tưởng rất đơn giản sau đây: những gì mỗi người nhận được đều ích lợi cho mọi người.

Biết rút tỉa lợi ích từ những hồng ân của anh em mình không phải là dễ. Dom Ambrôsiô nói về chân phước P.Tarsoi, thành viên của cộng đoàn ngài, rằng người ta chẳng thấy vị chân phước này có gì đặc biệt cả. Và khi thánh Têrêsa Lisieux qua đời, một chị nói không biết người ta có thể viết gì về thánh nữ trong bản tiểu sử của ngài.

Có thể nhận ra sự thánh thiện nơi những nhân vật như Mẹ Têrêsa hay bao nhiêu vị khác cách dễ dàng, nhưng lại vô cùng khó khăn nơi những người sống chung quanh ta. Ta có thể bị lầm lẫn vì những sơ xuất nhỏ nơi họ, tuy đó chỉ là những yếu đuối của con người mà bất cứ vị thánh nào cũng có. Khi mời gọi ta mừng kính các thánh, theo lịch phụng vụ, Chúa cho ta dịp may nhận ra nơi các người sống chung quanh ta những dấu tích của sự thánh thiện và giúp ta dâng lời tạ ơn về điều đó.

Chương 15

PHẢI ĐỌC ALLELUIA KHI NÀO ?

Ngày 18.2 – 19.6 – 19.10    

 1 Từ lễ Phục Sinh đến lễ Hiện Xuống, phải đọc Alleluia ở Thánh Vịnh cũng như trong đáp ca. 2 Từ lễ Hiện Xuống tới mùa chay, trong giờ Kinh Đêm , chỉ đọc Alleluia với sáu Thánh Vịnh sau. 3 Ngày Chúa nhật ngoài mùa chay, đọc Alleluia với các Thánh Ca Kinh Đêm, và cũng đọc trong giờ Kinh Sáng, Giờ Nhất, Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín. Còn Kinh Chiều thì đọc với tiền ca. 4 Các đáp ca không bao giờ có Alleluia ngoại trừ trong chu kỳ phục sinh.  

Chú giải:

A – Ngày 18.2

 Về phương diện phụng vụ, nét đặc biệt của mùa chay là không có Alleluia, như thánh Biển Đức lưu ý ở câu 2 và câu 3. Phụng vụ bỏ Alleluia để cho thấy rằng mùa chay là thời gian chờ đợi, thời gian hy vọng hướng về lễ Phục Sinh.

Việc cắt bỏ này là dấu hiệu về tất cả những gì bất toàn, giới hạn, không thỏa mãn trong cuộc đời ta. Sự vắng bóng Alleluia diễn tả cách tuyệt diệu thân phận làm người. Thức khuya dậy sớm, ăn chay, khổ chế chỉ nhấn mạnh và làm nổi bật lên thân phận đó thôi.

Mùa chay là thời gian ta ý thức lại cách mạnh mẽ hơn rằng ta không thể hài lòng với cái mình hiện là, với cái mình đang có. Ta được dựng nên để còn là hơn thế, để có hơn thế nữa. Như vậy, mùa chay không phải là để ta kiêng khem, giảm bớt cái nọ cái kia, nhưng để ta ý thức rằng cái ta thiếu thì còn lớn lao hơn cái ta kiêng khem.

Khi hướng đời ta về tương lai, về sự phục sinh, mùa chay có nhiệm vụ giáo dục tuyệt vời. Nó giúp ta nhìn đúng hơn ta đang sống thế nào, giúp ta tìm lại được triển vọng đích thực của định mệnh và ơn gọi làm người. Mùa chay giúp ta lùi bước trước những gì che lấp mất triển vọng của ta và nhốt ta trong cái tầm thường.

B – Ngày 19.6

Bằng những thay đổi nho nhỏ, như việc đọc Alleluia, thánh Biển Đức cho mỗi thời điểm trong năm một mầu sắc đặc biệt. Có những ngày “có” và những ngày “không”. Điều này được áp dụng cho nhiều chi tiết trong ngày sống: có hay không làm việc, ngày Chúa nhật; có hay không có bữa trưa trong thời gian chay tịnh, trong mùa chay, mùa phục sinh, v.v. Trong phụng vụ hay trong cuộc sống đời thường, những chi tiết ấy làm cho ngày, tháng hay mùa mang những sắc thái riêng biệt.

Càng sống lâu trong đời đan tu, ta càng nhận ra sự thay đổi qua lại như thế mang một tầm quan trọng đặc biệt, vì nó trở nên như một dụ ngôn, một ngôn ngữ âm thầm của những dấu hiệu loan báo sự hiện diện của Đấng đang đến. Những dấu hiệu này khơi dậy trong thâm tâm ta một điều gì đó còn hùng biện hơn cả ngôn từ.

Những dấu hiệu này là thành phần một loại “thập điều” của ơn thánh, nếu có thể nói được như vậy. Như người   năng gần gũi các loài chim và cây cối, sau cùng sẽ nhận ra được tiếng động nhỏ nhất trong rừng, đan sĩ cũng vậy, khi đã quen với những dấu hiệu ấy, có ngày sẽ nhận ra được hơi gió hết sức nhẹ nhàng của ơn thánh thổi qua các sự vật và các biến cố trong thế gian. Những dấu hiệu ấy giúp ta thêm nhạy cảm để nhận ra các mùa của Thiên Chúa.

Thực vậy, thực tại cuộc đời không trong suốt như ta tưởng. Ta phải học cho biết đọc ra thực tại đó với cặp mắt của Thiên Chúa, như đọc một lịch sử thánh, một cuộc tìm kiếm yêu đương giữa Thiên Chúa và dân Người. Nhưng để học biết nhìn thế giới như thế, thì cần thiết là cặp mắt của lòng ta phải quen nhận ra những dấu hiệu về việc Thiên Chúa đi qua, về sự hiện diện của Người. Đó là ý nghĩa sâu xa của tất cả những dấu hiệu nho nhỏ thánh Biển Đức đặt để trong cuộc sống của ta. Chúng nhắc ta quan tâm đến chiều kích kín ẩn của đời mình, đó là sự hiện diện của Chúa, ngài hiện diện để biến đổi tất cả.

C – Ngày 19 .10

Trong chương 15 này, thánh Biển Đức mô tả vị trí phụng vụ và thiêng liêng của Alleluia. Trước hết là thời gian phụng vụ: từ lễ Phục Sinh đến lễ Hiện Xuống và từ lễ Hiện Xuống đến mùa chay. Với trường hợp đặc biệt của ngày Chúa nhật ngoài mùa chay. Rồi có thời gian thiêng liêng mà ta có thể nhận ra nhờ một ám chỉ vắn tắt ở câu 2: “trong giờ Kinh Đêm chỉ đọc Alleluia với sáu Thánh Vịnh sau”.

Alleluia, đó là lời ca lúc trời sáng, nhưng cũng là lời ca của hy vọng trong đêm, khi màn đêm tan dần. Đó là lời ca lúc rạng đông, khi mặt trời sắp mọc và đẩy lùi bóng tối.

Việc hát Alleluia trong phụng vụ hàm chứa cả một giáo huấn về những khủng hoảng rải rắc trên hành trình thiêng liêng của ta. Phải coi chừng thái độ giả tạo của một số người làm bộ lạc quan chỉ vì sợ giáp mặt với bóng tối, nhất là bóng tối nơi chính mình. Nhưng thiết tưởng bằng thói quen phụng vụ này, thánh Biển Đức muốn truyền đạt cho ta một điều gì đó rất sâu sắc.

Chỉ người nào đã chìm thật sâu trong bóng đêm, người nào đã mất tất cả, và đã được Thiên Chúa chiếm hữu, mới biết rằng dù bóng tối dầy đặc tới đâu đi nữa thì có ngày ánh sáng cũng sẽ bừng lên. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô đã được ghi khắc tận đáy lòng họ. Họ biết được ý nghĩa cao quí của lời ca Alleluia đó.

Chương 16

PHẢI CỬ HÀNH THẦN VỤ

BAN NGÀY THẾ NÀO?

Ngày 19.2 – 20.6 – 20.10    

1 Vị ngôn sứ đã nói: “Con ca tụng Chúa mỗi ngày bảy lượt”. 2 Ta sẽ có đủ con số bảy thánh đó, nếu ta chu toàn nghĩa vụ của mình trong giờ  Kinh Sáng, Kinh Giờ Nhất, Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, Kinh Chiều và Kinh Tối; 3 vì khi nói  “mỗi ngày tôi ca tụng Chúa bảy lần” là thánh ngôn sứ nói về các giờ kinh ban ngày ấy. 4 Còn về Kinh Đêm, vị ngôn sứ nói: “Nửa đêm con thức dậy ca tụng Chúa”. 5 Vậy trong những giờ ấy nghĩa là các giờ Kinh Sáng, Kinh Giờ Nhất, Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, Kinh Chiều và Kinh Tối, ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời ca tụng vì các phán quyết của ngài; và nửa đêm, ta cũng hãy thức dậy ca tụng ngài.

Chú giải:

A – Ngày 19.2

“Hãy dâng lên Thiên Chúa lời ca tụng vì những phán quyết công minh của ngài” (c.5). Phần sau của câu này: “vì những phán quyết công minh của ngài” qui chiếu về việc Chúa quan phòng. Ta có thể dịch câu trên đây như sau: “Hãy dâng Thiên Chúa lời ca ngợi vì những gì xẩy đến cho ta”.

Yêu thích cái đang có, vui mừng vì cái đang có, cảm tạ vì cái xẩy ra, vì tình trạng hiện thời của ta, đó là việc không dễ dàng. Có những khi xem ra ta phải rất khổ sở mà chấp nhận thực tại, đón nhận cuộc đời như nó đang xẩy đến, yêu thương mình trong hiện trạng của mình. Ta luôn mong muốn mọi sự xẩy ra cách khác, chứ không phải như ta thấy lúc này đây.

Với thánh Biển Đức, thần tụng, được cử hành bảy lần mỗi ngày, là một ngôi trường dậy ta dần dần biết sống với thực tại. Nơi đây, qua việc tiếp xúc với Lời Chúa, ta có thể học yêu quí cái hiện có, bằng lòng với hiện trạng của mình.

Bằng việc không ngừng nhắc nhở ta về sự hiện diện của Chúa nơi những điều khiêm tốn nhất của cuộc đời, phụng vụ các giờ kinh dần dần chữa ta khỏi những mơ mộng, những ảo tưởng về mình. Phụng vụ các giờ kinh giao hòa ta với thực tế, giúp ta thuần hóa cái trạng thái sôi sục trong nội tâm khiến ta lìa xa Chúa và xa chính mình. Thần tụng giải thoát ta, nếu ta muốn.

B – Ngày 20.6

Hẳn không phải vô tình mà hai trích dẫn Thánh Kinh trong chương 16 này được lấy từ Thánh Vịnh 118. Ở câu 1 và câu 3: “Mỗi ngày bảy lượt, con ca tụng Chúa” (Tv 118,164), và ở câu 4: “Nửa đêm thức dậy, con ca tụng Chúa” (Tv 118,62).

Nhưng điều đáng lưu ý hơn là phần thứ hai của hai câu 62 và 164 trên đây của Thánh Vịnh 118, mà thánh Biển Đức không trích dẫn, lại giống hệt nhau. Thực vậy, ở câu 62, Thánh Vịnh gia nói: “Nửa đêm thức dậy, con ca tụng Chúa”, và ông thêm “vì những quyết định công minh của Ngài”. Cũng thế, ở câu 164: “Mỗi ngày bảy lượt, con ca tụng Chúa”, và thêm “vì những quyết định công minh của Ngài”.

Phần hai của những câu Thánh Vịnh đó cho thấy ý nghĩa của thần vụ một cách rất đặc biệt. Việc suy niệm Lời Chúa không những giúp ta khám phá, nhận ra hành động của Chúa trong đời mình, trong tất cả những gì xẩy đến cho ta, mà còn giúp ta thấy rằng những điều đó đều tốt đẹp cho ta cả.

Như vậy là có sự liên kết chặt chẽ và sâu xa giữa việc suy niệm Lời Chúa, tức là phụng vụ, và việc nhận biết tác động quan phòng của Chúa trong cuộc đời ta, trong cộng đoàn, trong Giáo Hội và trong thế giới. Việc cử hành phụng vụ chính là trường dậy ta học biết Chúa đang hoạt động trong cuộc sống của ta, và tuyên xưng rằng điều đó thật là tốt cho ta.

C – Ngày 20.10  

Với thánh Biển Đức, con số các giờ thần vụ là quan trọng vì ngài liên kết con số này với hai câu Kinh Thánh; nhưng xét cho cùng ta thấy rằng điều đó chẳng có gì quan trọng cả. Thực vậy, với thánh Biển Đức, các giờ thần vụ là như những cột mốc trên đường đi, những điểm tựa, những tiếng nhắc nhở và những ốc đảo trong sa mạc.

Các giờ thần vụ như những cột mốc trên đường, vì chúng phân phối thời gian trôi qua trong ngày và làm cho khuôn mặt Thiên Chúa in nét trên thời gian, giúp ta trả lại Thiên Chúa điều thuộc về ngài, tức là thời gian của con người. Theo nghĩa này, các giờ thần vụ cũng là những điểm tựa, để giúp ta khỏi buông theo chán nản, mệt nhọc, ươn lười, thụ động. Nói chung, trong đời sống đan tu, khi ta bắt đầu trệch đường thì việc này luôn luôn khởi sự từ những tâm trạng ấy.

Vì các giờ thần vụ có vai trò nhắc nhở, nên chúng nhắc ta nhớ tới điều cốt yếu trong đời, tới điều ta đến tìm kiếm nơi đây, khi ta gõ cửa đan viện để xin được nhận vào. Trước hết chính vì điều đó mà ta có mặt ở đây.

Sau cùng, các giờ thần vụ là những ốc đảo trong sa mạc. Tất nhiên, đó là ốc đảo cho ta, nhưng cũng là ốc đảo cho tất cả những ai đau khổ, những ai vẩt vả lầm than.

Thực vậy, ơn gọi của ta không hề là một thứ tiện nghi thiêng liêng, một thứ nghỉ ngơi yên hàn, xa khỏi những vấn đề và những lo âu mà bao người khác đang giáp mặt. Nếu ta hiện diện nơi đây, nếu Chúa gọi ta đến đây chính là để ta chu toàn “việc cầu nguyện”, “việc Chúa”, như thánh Biển Đức nói, nhằm phục vụ thế gian. Ta có thể cử hành thần vụ vì chính mình, bởi lẽ ta ưa thích, hay vì anh em do tinh thần liên đới, nhưng ta cũng dần dần khám phá ra rằng ta cử hành thần vụ là vì sứ mệnh Thiên Chúa ủy thác, vì thế gian!

Chương 17

PHẢI ĐỌC BAO NHIÊU THÁNH VỊNH

TRONG CÁC GIỜ KINH BAN NGÀY?

Ngày 20.2 – 21.6 – 21.10  

1 Về giờ Kinh Đêm và Kinh Sáng, cha đã quy định thể thức hát xướng; nay ta hãy xét tới các giờ còn lại. 2 Giờ Nhất, đọc ba Thánh Vịnh, nhưng tách rời chứ không phải cùng một kinh Vinh Danh, 3 Thánh thi giờ này đọc sau xướng khúc: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con” trước khi bắt đầu các Thánh Vịnh. 4 Hết ba Thánh Vịnh, đọc một đoạn sách với xướng đáp và lời cầu, rồi kết thúc giờ kinh. 5 Các Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín cũng cử hành theo một thứ tự, nghĩa là câu xướng, thánh thi riêng mỗi giờ, ba Thánh Vịnh, một đoạn sách, xướng đáp, lời cầu, và kết thúc. 6 Nếu cộng đoàn đông thì hát với tiền ca, nếu không thì đọc cung bằng. 7 Kinh Chiều gồm bốn Thánh Vịnh với tiền ca. 8 Sau các Thánh Vịnh ấy là một đoạn sách, đáp ca, thánh thi Ambrosianô, xướng đáp, Thánh Ca Tin Mừng, lời cầu, và kết thúc với kinh Lạy Cha. 9 Kinh Tối chỉ đọc ba Thánh Vịnh, đọc theo cung bằng không có tiền ca. 10 Sau đó là bài thánh thi riêng của giờ ấy, một đoạn sách, xướng đáp, lời cầu và phép lành kết thúc.

Chú giải:

A – Ngày 20.2

Khi nói tới cầu nguyện, ta nghĩ ngay đến chất lượng của cầu nguyện, đến sự trong sáng của cầu nguyện. Thánh Biển Đức cũng đề cập tới điều đó, nhưng khi nới về cầu nguyện, đặc biệt là thần tụng, ngài thường nói đến số lượng nhiều hơn. Điều này có thể dẫn ta tới nhiều suy tư.

Ý tưởng đầu tiên, đó là số lượng không mâu thuẫn với chất lượng, nhưng có lẽ là điều kiện để có chất lượng. Chính khi cầu nguyện, khi dùng thời giờ để cầu nguyện, khi kéo dài thời gian cầu nguyện mà ta học biết cầu nguyện. Chính số lượng sẽ dần dần giúp cho việc cầu nguyện của ta có được chất lượng nào đó.

Ý tưởng thứ hai là điều ấy muốn nói rằng không có ranh giới dứt khoát, không có đối kháng giữa khẩu nguyện và tâm nguyện, như người ta đã từng tranh cãi. Quả thực, làm sao Lời Chúa lại có thể trái ngược với điều thánh Phaolô gọi là tiếng rên xiết của Thần Khí trong ta?

Quả thực, cầu nguyện bằng Thánh Vịnh đối với ta là như một liệu pháp cho ký ức, một cách thanh tẩy tư tưởng bằng Lời Chúa để hoán cải và biến đổi chúng. Số lượng và chất lượng cầu nguyện không đối nghịch nhau. Ngược lại, số lượng làm nảy sinh chất lượng, là điều kiện cần thiết để có được chất lượng.

B – Ngày 21.6

 “Bao nhiêu Thánh Vịnh?” (c.1). Ta lại ngụp lặn trong thế giới những con số, một thế giới không xa lạ gì với cuộc tìm kiếm thần bí. Các con số làm phát sinh hai thái độ trái ngược nhau. Một đàng, con người tìm cách kiểm soát thực tại, muốn điều khiển thế giới và thời gian. Đàng khác, con người ngạc nhiên lắng nghe những gì các con số muốn nói.

Các linh phụ Xitô cũng đã dùng tới tính biểu tượng của các con số. Một số trong các vị đã viết về đề tài này, chẳng hạn như Geoffroy d’Auxerre, thư ký và môn đệ của thánh Bênađô. Trong một khảo luận nhỏ, ông trình bày một vài chú giải về các con số với những qui chiếu Thánh Kinh, luân lý và thần học. Khảo luận của ông về những con số hoàn hảo bàn tới những cấp bậc trong đời sống thiêng liêng.

Như vậy, các con số không chỉ liên quan tới cơ cấu của vũ trụ, của thời gian và các sự vật mà cũng liên hệ tới sự thăng tiến thiêng liêng nữa. Như thánh Biển Đức nói tới mười hai bậc khiêm nhường. Còn Gioan Cassianô thì bàn về tám nết xấu và đề cập tới bốn ý nghĩa của Thánh Kinh.

Thật là thú vị khi đọc tu luật mà để ý tới những đoạn thánh Biển Đức tính toán, cân nhắc và sử dụng các con số. Chẳng hạn như khi ngài nói về con số các Thánh Vịnh. Nhưng còn thú vị hơn khi hiểu được mối tương quan giữa các con số với mức thăng tiến thiêng liêng và sự cầu nguyện mà không gì có thể đo lường được. Công việc của con người có thể đo lường chứ công việc của Thiên Chúa thì không. Bằng cách nào thánh Biển Đức đi từ việc của con người tới việc của Thiên Chúa? Bằng cách nào ngài sẽ giúp đan sĩ đi từ việc đo lường mọi sự tới tình yêu không thể đo lường?

C – Ngày 21.10 

Điều khiến ta ngạc nhiên trong những chương về thần vụ, đó là việc lặp đi lặp lại trong cấu trúc các giờ kinh. Một nhập đề, các thánh vịnh, một thánh thi, một bài đọc, một câu xướng đáp, kinh thương xót, kết thúc. Ngày nay đại cương cấu trúc các giờ kinh vẫn còn lại như xưa. Phụng vụ không tìm cái độc đáo, về hình thức hay về nội dung.

Một khuôn khổ nhất định, không thay đổi, có thể gây ngạc nhiên ở một thời đại mà người ta thích thay đổi, thích tìm cái độc đáo và cái mới bằng mọi giá, ở một thời đại mà người ta không ưa lặp đi lặp lại. Giống như đời sống đan tu, phụng vụ tỏ ra trái ngược với cái mốt, cái thú thay đổi đang tác động trên thế giới chúng ta. Nhưng tại sao? Có phải vì bảo thủ hay lười biếng? Có phải là một thứ thần thánh hóa quá khứ, vì xưa nay vẫn làm vậy?

Có ẩn ý gì khi chọn cách lặp đi lặp lại như thế? Để hiểu được điều đó, nên nhớ rằng phụng vụ có mục đích giúp ta vượt qua tính cách mau qua của các biến cố, để nhận ra cái nền của lịch sử nhân loại, của lịch sử mỗi cuộc đời chúng ta. Mà điều quan trọng là đi từ quan niệm hời hợt tới cách nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống của ta.

Như vậy, khi giúp ta đặt những gì xẩy đến cho ta vào trong tác động lớn lao của lịch sử cứu độ, phụng vụ giúp ta biện phân được nơi những điều đó vết chân của Thiên Chúa, đấng hoạt động trong cuộc đời ta và ban cho ta cơ hội cảm tạ ngài về hoạt động ấy.

Chương 18

ĐỌC CÁC THÁNH VỊNH

THEO THỨ TỰ NÀO?

Ngày 21.2 – 22.6 – 22.10                    

1 Trước hết đọc câu xướng: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ con”, rồi Vinh Danh và Thánh Thi của mỗi giờ. 2 Sau đó, trong Kinh Giờ Nhất Chúa nhật, đọc bốn đoạn của Thánh Vịnh 118. 3 Trong các giờ kinh khác, nghĩa là Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, mỗi giờ đọc ba đoạn của Thánh Vịnh đó. 4 Giờ Nhất của ngày thứ  hai đọc ba Thánh Vịnh 1, 2, 6. 5 Như thế, Kinh Giờ Nhất mỗi ngày cho đến Chúa nhật cứ theo thứ tự đọc ba Thánh Vịnh cho tới Thánh Vịnh 19, nhưng Thánh Vịnh 9 và l7 thì chia làm hai Vinh Danh. 6 Như vậy, cứ đến Kinh Đêm Chúa nhật, bao giờ cũng bắt đầu bằng Thánh Vịnh 20.

Chú giải:

A – Ngày 21.2

 Theo thánh Biển Đức, các giờ kinh thần vụ phải bắt đầu bằng câu Thánh Vịnh này: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ” (Tv 69,2). Cho dẫu ta đọc theo thói quen, chẳng chú ý nhiều, câu này cũng sẽ ghi khắc nơi ta một thái độ tinh thần, một cách đối diện với thực tế, với những khó khăn cũng như những thành đạt. Quả thực, câu Thánh Vịnh này là một xác nhận về tình cảnh mong manh của cuộc sống con người. Vì thấy mình yếu đuối nên ta đến trước tôn nhan Chúa mà kêu xin: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”.

Trong bài Thuyến giáo X, Cassianô cho thấy câu Thánh Vịnh này áp dụng được vào mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của cuộc sống ta, khi hạnh phúc cũng như lúc đau khổ. Ta dễ dàng hiểu rằng điều đó là đúng khi gặp bất hạnh, nhưng Cassianô cũng lưu ý tới tính cách mong manh của những thành đạt, những gì ta thực hiện được. Tất cả đều có thể sụp đổ, dù là trong đời sống cá nhân hay trong cộng đoàn.

Thánh Vịnh là ngôi trường tuyệt vời dậy ta Phúc Âm hóa những niềm vui nỗi khổ của mình. Thánh Vịnh cho ta thấy, trải qua những thăng trầm của cuộc sống, một lịch sử khác đang được xây dựng như thế nào. Vì đối với Thiên Chúa chẳng bao giờ có chi   mất đi được.

B – Ngày 22.6

“Theo thứ tự” (c.5). Có trật tự cho mọi sự thì cũng có trật trong việc đọc Thánh Vịnh. Và để thiết lập trật tự thì đã có những tiêu chuẩn. Chẳng hạn xếp đặt những vật giống nhau vào một chỗ, như xếp đinh vào một hộp, xếp nĩa vào một ngăn khác với ngăn để thìa, hoặc xếp theo thứ tự lớn dần hay nhỏ dần. Cuộc sống ta được tổ chức theo một trật tự và những tiêu chuẩn. Để sống chung, cần thiết phải cùng có một cách nhìn nào đó, phải chia sẻ cùng một trật tự các giá trị.

Đối với các Giáo Phụ, đặc biệt là thánh Augustinô, sự lộn xộn, trái ngược với trật tự, là cội nguồn của sự dữ và đau khổ. Trong khảo luận “De Ordine” (Bàn về trật tự), thánh Augustinô dùng ý niệm về trật tự để giải thích nguồn gốc của sự dữ trong thế gian.

Thánh Biển Đức cũng rất nhạy cảm với trật tự. Ngài ấn định cả một loạt các tiêu chuẩn, chẳng hạn về thứ vị, ngài đưa ra những qui luật cho việc sắp xếp thứ tự trong cộng đoàn, nhưng ngài cũng quan tâm tới những dụng cụ, tới khăn áo của người làm bếp, tới chuyện may mặc v.v. Thánh Biển Đức quan niệm rằng nếu cuộc sống vật chất cụ thể mà có trật tự thì cái lộn xộn bởi tội lỗi sẽ tháo lui. Vì con người là một hữu thể thống nhất: cách sống bên ngoài sẽ thay đổi con người bên trong.

Ta đã đánh mất cái nhìn thống nhất về cuộc đời. Thời nay người ta sống trong cảnh hỗn độn và khao khát có được cảm nghiệm thiêng liêng. Tuy nhiên, ai đã có chút kinh nghiệm về cầu nguyện đều biết rằng không phải chỉ theo những cảm hứng nhất thời mà ta lớn lên được trong việc cầu nguyện. Cầu nguyện rất giống với công việc làm có phương pháp, đôi khi vất vả, của người thợ cứ lặp đi lặp lại cả trăm lần một động tác. Ngay cả những nghệ sĩ lớn trong việc cầu nguyện, là những nhà huyền bí, cũng đã phải học cho biết cầu nguyện.

C – Ngày 22.10 

“Trước hết, đọc câu: ‘Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ’ “. Câu mở đầu đơn giản này nói lên tất cả về kinh nguyện của đan sĩ. Câu này trào dâng như một tiếng kêu, gồm tóm trong vài ba từ vở kịch của mọi cuộc sống con người, vở kịch của cuộc đời mà ta vẫn sống một cách mạnh mẽ và sâu sắc, nhưng đôi khi ta không biết đến. Đó là vở kịch có hai mặt tương ứng với nhau, nhưng hai mặt ấy không luôn luôn hiện diện trong tâm trí ta ở cùng một cường độ.

Mặt thứ nhất, đó là mặt kinh nghiệm về cái nghèo khó, về những giới hạn ta đau đớn cảm thấy nơi mình. Điều này không hẳn là hiển nhiên, vì người nào luôn luôn thành công trong việc dàn xếp những trở ngại, bằng cách đổ lỗi cho người khác, cho bề trên, cho cộng đoàn hay cho cả Chúa nữa, thì chưa có kinh nghiệm về sự bần cùng triệt để của mình. Để thốt lên câu thánh vịnh trên đây, thì đừng tìm cách đổ lỗi cho ai nữa, nhưng dám nhìn thẳng vào sự bất lực tận cùng nơi ta. Có lẽ thánh Biển Đức bảo đây là bước đầu tiên, là bậc thứ nhất. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, vì kinh nghiệm về những giới hạn của mình có thể đưa tới thất vọng, hoặc tự khép kín hay buông trôi.

Thì đây đã có mặt thứ hai của lời kêu cầu “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con, …” Không phải là tức tốc thay đổi tình trạng yếu đuối của mình, nhưng đón nhận sự yếu đuối như mình hiện có. Thực ra, sự nghèo nàn của ta không phải chỉ là một thiếu thốn, nhưng trước hết là tiếng mời gọi ta đến với đấng có thể lấp đầy cái thiếu thốn ấy. Nghèo khó theo tinh thần Phúc Âm không phải là co cụm lại nơi mình, là mặc cảm tội lỗi khiến ta héo hắt đi, nhưng là cánh cửa mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa muốn ban cho ta. Như vậy, câu thánh vịnh ngắn ngủi ấy qui tụ tất cả cuộc đời đan sĩ dưới ánh sáng đức tin. Bởi vì Thiên Chúa chờ đợi ta trong ánh sáng dó, và chỉ trong ánh sáng đó ta mới gặp được ngài.

Ngày 22.2 – 23.6 – 23.10            

7 Còn Kinh Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín ngày thứ hai, đọc chín đoạn còn lại của Thánh Vịnh 118, mỗi giờ 3 đoạn. 8 Vậy trong hai ngày tức là Chúa nhật và thứ hai, ta đọc hết Thánh Vịnh 118. 9 Ngày thứ ba, trong các Giờ Ba, Giờ Sáu, Giờ Chín, mỗi giờ ba Thánh Vịnh, từ Thánh Vịnh 119 đến 127 nghĩa là chín Thánh Vịnh tất cả. 10 Các Thánh Vịnh này sẽ đọc lại trong các giờ đó cho tới Chúa nhật. Còn thánh thi, bài đọc, xướng đáp thì giữ như đã ấn định nhất mực cho mọi ngày. 11 Như thế, cứ Chúa nhật thì bất đầu lại từ Thánh Vịnh 118.

Chú giải:

A – Ngày 22.2

“Đọc lại”, “bắt đầu lại” (c.10-11). Ở vào thời đại mà bằng mọi giá người ta không ngừng tìm kiếm cái mới, cái độc đáo, thì hai cụm từ này cho thấy người thời nay khó mà đi vào được cách sống riêng của ơn gọi đan tu.

Thực vậy, thay vì tạo ra biến cố, gây điều ngạc nhiên, thì toàn bộ tu luật dường như chỉ có mục đích san bằng những khác biệt, những gì là nổi nang, và khuyến khích ta không ngừng bắt đầu lại trong một cuộc sống đơn điệu.

Phải chăng đó là dấu hiệu cho thấy đời đan tu đã lỗi thời, hay đường lối giáo dục của cuộc sống ấy cần phải được xem xét lại? Số ơn gọi giảm sút dường như là một dấu hiệu không thể nghi ngờ được về điều đó, trong khi các cộng đoàn thường ham thích cái mới lạ, tìm tạo ra biến cố.

Thực ra thì ta có thể sống theo thời, tìm tạo ra những điều mới mẻ. Nhưng liệu ta có còn trung thành với cảm hứng ban đầu đã khơi gợi lên cuộc tìm kiếm nội tâm trong đời đan tu nữa không? Vì khi ưa chuộng những biến cố bên ngoài, ta khó mà khám phá ra được chiều sâu của hữu thể mình.

B – Ngày 23.6

Câu 10 của chương này cho ta một bí quyết về kỹ thuật của việc cầu nguyện đan tu, nếu nói được như vậy. Hai cụm từ xác định điều ấy: “đọc lại” và “ấn định nhất mực”. Đọc lại và nhất mực là hai đặc thù cốt yếu của thần vụ, của việc cầu nguyện đan tu.

Khi ta tự nhiên nghĩ rằng sự thay đổi, những hình thức đa dạng, tính độc đáo là những yếu tố cần thiết để giúp chú ý, khơi dậy sự thích thú, thì việc cầu nguyện đan tu lại đi ngược với cách suy nghĩ của ta. Không phải cứ đổi thay mà có thể chú ý, kiên trì hay có được sự sâu xa trong việc cầu nguyện.

Ta có thể nêu nhiều lý do. Trước hết, cứ đổi mới hoài sẽ gây chia trí. Ta sẽ phải để ý tới hình thức mà quên mất chiều sâu. Ta sẽ chỉ cầu nguyện cách hời hợt vậy thôi.

Việc đọc đi đọc lại các giờ kinh hay các Thánh Vịnh có hai hiệu quả chính. Trước tiên nó giúp ta vượt qua cái vỏ bên ngoài của mặt chữ để đi vào nội dung sâu xa của Lời Chúa.  Nhưng hiệu quả thứ hai còn quan trọng hơn nữa. Thực vậy, Lời Chúa, khi được nghe đi nghe lại mãi sẽ thấm dần tới chỗ sâu kín nhất của linh hồn ta. Lời ta đọc, hát hay xướng lên nhiều lần từ bên ngoài thì sau cùng sẽ gặp được Lời ghi khắc tận nơi sâu thẳm nhất của bản thân ta. Đó là tiếng thì thầm của Thần Khí cư ngụ nơi ta, trong cõi bí ẩn nhất của lòng ta.

C – Ngày 23.10

 “Các Thánh Vịnh này sẽ đọc lại” (c.10). Phụng vụ không sợ lặp lại. Nhưng đó còn là một trong những yếu tố cơ bản giúp mang lại hiệu quả. Chính bằng việc lặp đi lặp lại các nghi thức mà phụng vụ nuôi dưỡng những người tham dự.

Đó là cái mâu thuẫn lớn của phụng vụ, nhất là ở vào một thời và trong một văn hóa mà người ta đề cao những khẩu hiệu như “thay đổi”, “sản phẩm mới”, “hàng mới”… Như thế, lặp đi lặp lại không kỳ lắm sao? Nhưng hãy nhìn vào hiện tượng này kỹ hơn một chút.

Thực ra, khi quan sát những cuộc thi đấu thể thao lớn như thế vận hội, giải bóng đá hay quần vợt ta sẽ rất ngạc nhiên về tính cách lặp đi lặp lại của các vận động, chẳng khác nào như những nghi thức. Chỉ duy một điều thay đổi là kết quả sau cùng của trận đấu, còn mọi sự khác đều lặp đi lặp lại một cách không thể thay đổi được.

Như thế, ngày nay việc lặp lại vẫn còn giữ nguyên sức quyến dũ của nó. Lời Chúa cứ nhỏ từng giọt không ngừng thì sau cùng sẽ làm lủng được tảng đá cứng nhất, với điều kiện ta chấp nhận để cho Lời nhỏ trên con tim cứng như đá của ta. Vì, dù ta không hay biết, dù ta không thực sự ý thức được, Lời được lặp đi lặp lại sẽ từ từ thâm nhập vào tận những gốc rễ của hữu thể ta, nơi mà ta không tự mình vào tới được, để biến đổi và tái tạo ta.

Ngày 23.2 – 24.6 – 24.10     

12 Kinh Chiều mỗi ngày hát bốn Thánh Vịnh, 13 bắt đầu từ Thánh Vịnh 109 đến Thánh Vịnh 147; 14 trừ những Thánh Vịnh dành riêng cho các giờ khác, tức là từ Thánh Vịnh 117 đến Thánh Vịnh 127 và 133, 142. 15 Các Thánh Vịnh còn lại đều đọc trong giờ Kinh Chiều. 16 Nhưng vì thiếu ba Thánh Vịnh mới đủ số, nên cha chia Thánh Vịnh nào dài nhất trong số đó ra, tức là Thánh Vịnh 138, 143, 144. 17 Còn Thánh Vịnh 116, vì ngắn nên đọc liền với Thánh Vịnh 115.18 Thứ tự Thánh Vịnh trong Kinh Chiều được ấn định như thế; phần còn lại như bài đọc, đáp ca, thánh thi, xướng đáp và Thánh Ca cứ giữ như đã nói trên. 19 Giờ Kinh Tối ngày nào cũng đọc Thánh Vịnh  4, 90, 133.

Chú giải:

A – Ngày 23.2

Điều nổi bật trong phụng vụ biển đức và chắc chắn đã ảnh hưởng tới phụng vụ la tinh, đó là mọi yếu tố đều đã được xếp đặt trước. Tất cả đều tuần tự diễn tiến mà không cần phải thắc mắc, không cần biến chế gì. Khi ấy tâm trí có thể thảnh thơi mà bay bổng theo câu ca tiếng hát và chăm chú nghe Lời Chúa.

Ta nhận thấy được điều ấy khi có người đọc sai, khi ta không biết phải làm gì nữa vì một chút thay đổi nào đó. Như thể, nếu bị bó buộc phải để ý vào điều gì khác có tính phụ thuộc, ta lại bị ngăn trở tập trung vào những điểm cốt yếu hơn của giờ kinh.

Thiết tưởng thánh Biển Đức quan tâm ấn định cơ cấu chặt chẽ cho giờ kinh như thế là vì ngài hiểu phụng vụ là trường dạy ta đi vào nội tâm. Ngài muốn sự thay đổi đều đặn trong việc đọc Thánh Vịnh sẽ dẫn ta đi vào chiều sâu của bản thân mình, nơi mà ta phải vất vả lắm mới vào được.

Với thời gian, có ngày ta sẽ vào tới không gian nội tâm của cầu nguyện, ở trong nơi sâu thẳm nhất của lòng mình, lúc nào chẳng hay. Và dần dần, nhất là nhờ ơn Chúa, ta sẽ ở lại được trong đó, ngay cả giữa những xáo trộn. Nhưng hiện lúc này, ta cần được khoa giáo dục của thần tụng không ngừng dẫn đưa tới nguồn mạch của bản thân ta.

B – Ngày 24.6

Những liệt kê đài dòng các Thánh Vịnh có vẻ chán ngắt và khô khan đối với ta. Việc thánh Biển Đức quá chú trọng tới điều ấy có thể có những lúc khiến ta khó chịu. Tại sao phải chú trọng đến chi tiết quá như thế? Tại sao phải dành cả một chương để phân phối tỉ mỉ những Thánh Vịnh mà ta có thể xếp vào chỗ khác? Có lẽ ta nên tự vấn một chút về những lý do đã khiến thánh Biển Đức làm như vậy.

Trước hết ta có thể coi đó như một dữ kiện lịch sử. Vào thời thánh Biển Đức, tu luật là tư liệu thành văn duy nhất, điểm qui chiếu duy nhất để tổ chức đời sống cộng đoàn và phụng vụ. Đó là sự thật, nhưng tôi nghĩ rằng việc sắp xếp của thánh Biển Đức cũng cho thấy một điều khác nữa.

Việc đọc Thánh Vịnh, suy đi gẫm lại, là điều nòng cốt của phụng vụ đan tu và mang lại hiệu quả quan trọng. Trước hết, các Thánh Vịnh cho thấy sự nối tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thánh Vịnh nhắc nhớ ta về mối liên hệ của ta với lịch sử Israel, đưa ta trở lại nguồn cội của Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân ngài.

Nhưng Thánh Vịnh còn một chiều kích khác nữa. Đó là lồng lịch sử của ta vào lịch sử của Israel. Khi áp dụng lời Thánh Vịnh vào cuộc sống của ta, vào những niềm vui nỗi buồn, những thử thách cám dỗ và những chai đá cứng lòng của ta, Thánh Vịnh đưa ta đi vào cuộc mạo hiểm lớn lao của dân tộc những người tin. Thánh Vịnh dứt ta ra khỏi tính ích kỷ, khỏi co cụm lại với mình. Nếu cuộc mạo hiểm của riêng ta là duy nhất và độc đáo thì vẫn không khiến ta bị cô lập, nhưng đưa ta gia nhập một dân, làm cho tất cả chúng ta nên một thân thể, thân thể Chúa Kitô.

C – Ngày 24.10

Có một từ mà chỉ mình nó đã diễn tả được một trong những đặc tính cốt yếu nhất của cầu nguyện. Đó là từ “cotidie”, nghĩa là “hằng ngày”. Quả thực, việc cầu nguyện đan tu của ta mang đặc tính lặp đi lặp lại, gần như máy móc, điều mà con người ở thời ta rất sợ. Ngày nay người ta rất nhạy cảm với sự hứng khởi tự nhiên, với khía cạnh gây súc cảm trong cầu nguyện. Trái lại, các vị xưa kia lại thích tổ chức việc cầu nguyện theo một nhịp điệu rõ ràng.

Sở dĩ như vậy là vì đối với đại đa số trong ta cầu nguyện giống như một nghề. Về lãnh vực này, hiếm có những nghệ sĩ, nhưng phần đông là những người thợ, những người làm công, họ cầu nguyện như thực hiện một công việc phải làm. Những anh em này cầu nguyện không ngơi nghỉ, từng ít một, nhưng rất mực trung thành và không hề mệt mỏi.

Thật là nguy hiểm khi tự cho mình là một nghệ sĩ chuyên nghiệp và coi thường những anh em bé nhỏ ấy, họ sẵn sàng dâng hiến sức lực và thời giờ cho kinh nguyện mà không hề so đo. Họ không thể chú giải sách Nhã Ca hay trưng dẫn thánh Gioan Thánh Giá, nhưng họ thuộc vào số những con người nhỏ bé được Chúa Giêsu yêu thương.

Con đường ấy, con đường của những kẻ bé mọn và khiêm tốn chính là con đường thánh Biển Đức đề nghị với đan sĩ. Còn con đường khác thì chỉ Thiên Chúa mới có thể đôi khi mở ra cho một số người, mà chẳng biết tại sao. Và những ai được ơn cao cả như thế sẽ hiểu ngay rằng họ chẳng hề xứng đáng, và họ cũng hiểu cái đẹp của con đường khiêm tốn ngày qua ngày, sát cánh bên anh em cử hành giờ thần vụ này tới giờ thần vụ khác, giờ suy niệm này tới giờ suy niệm khác, con đường của “cotidie”, của kinh nguyện mỗi ngày.

Ngày 24.2 – 25.6 – 25.10        

20 Đó là thứ tự đọc Thánh Vịnh ban ngày. Các Thánh Vịnh còn lại sẽ chia đều cho các giờ Kinh Đêm trong tuần; 21 Thánh Vịnh nào dài thì chia ra, sao cho mỗi đêm đọc đủ mười hai Thánh Vịnh. 22 Tuy nhiên, cha lưu ý rằng nếu ai không thích cách phân phối Thánh Vịnh như thế, hãy xếp đặt cách nào họ cho là tốt hơn, 23 miễn sao phải đọc đủ 150 Thánh Vịnh mỗi tuần, và cứ giờ Kinh Đêm Chúa nhật lại khởi sự từ đầu. 24 Thực ra, nếu các đan sĩ trong suốt một tuần mà không đọc hết tập Thánh Vịnh, thì chứng tỏ họ chểnh mảng trong việc thờ phượng là chừng nào, 25 bởi vì khi đọc truyện các vị tiền bối, ta thấy các ngài đã hăng hái chu toàn nhiệm vụ đó trong một ngày, phần ta ươn lười biếng nhác, ít ra phải cố đọc hết trong một tuần.

Chú giải:

A – Ngày 24.2

Thật là cách biệt! Điều này thánh Biển Đức nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tu luật. Ta thật kém xa các bậc tiền bối, các ngài đọc hết cuốn Thánh Vịnh trong một ngày. Ở chương 73, ta lại nghe nhắc: “Trong khi đó ta, những kẻ ươn lười, biếng nhác, phải lấy làm xấu hổ”.

Dọc theo truyền thống đan tu, kể từ các linh phụ sa mạc, thế hệ này qua thế hệ khác, lời than phiền đó vẫn cứ lặp lại. Điều ấy có thể khiến ta khó chịu, nhưng hẳn phải có một ý nghĩa, nếu đời nọ qua đời kia, các đan sĩ tự nhận ra mình là con cháu bất xứng của các vị tiền bối. Và hẳn là chẳng nên tin những người cho rằng mình làm tốt hơn các bậc cha anh.

Nhận biết mình mắc nợ người khác, những người đi trước mình, cũng như ý thức những giới hạn, những thiếu sót, những yếu đuối của mình, đó là dấu hiệu cho thấy sự cao cả đích thực, sự cao cả được nên phong phú bằng kho tàng mà người khác chuyển giao. 

B – Ngày 25.6

Để khích lệ ta, thánh Biển Đức nhắc đến gương các đan sĩ xưa kia đã đọc hết cuốn Thánh Vịnh trong một ngày. Có lẽ phải sống lâu dài trong đời đan tu, phải sau nhiều năm đọc thần tụng, ta mới hy vọng một ngày nào đó cảm nghiệm được lý do đã khiến các vị tiền bối của ta ham thích đọc Thánh Vịnh như thế. Quả thực, phải đi từ trí óc đến trái tim, đó là một kinh nghiệm rất ngọt ngào như Cassianô diễn tả trong bài Thuyết giáo X.

Trong bài Thuyết giáo này, ở số 11, Cassianô mô tả cách cầu nguyện trong truyền thống tĩnh tịch mà sau này sẽ trở thành lời nguyện Chúa Giêsu. Việc suy niệm câu Thánh Vịnh “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ” đưa ta vào tình trạng nghèo khó, như lời tiên tri: “Kẻ nghèo và người cùng khổ sẽ ca ngợi Đức Chúa”. Khi ấy sẽ xẩy ra sự đảo lộn diệu kỳ, đó là Thánh Kinh không đến từ bên ngoài như một chứng từ nữa, nhưng từ bên trong, từ nội tâm, như một kỷ niệm.

C – Ngày 25.10

Với thời gian, đan sĩ sẽ bị thói “chểnh mảng” rình rập. Theo từ nguyên latinh, “iners” (in: ý nói thiếu; ers [ars]:nghệ thuật) nghĩa là người không có nghệ thuật; hiểu rộng là không có khả năng, thiếu hoạt động, nhàn rỗi, khô cằn, nhạt nhẽo, ù lì. Ẩn ý sau từ này là không trau dồi nghệ thuật, sống buông trôi. 

Thánh Biển Đức sử dụng từ này khi nói về thần vụ. Một ngày nào đó tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về sự nặng nề của thần vụ, của đời sống đan tu. Và ta bị cám dỗ chùn tay, chỉ còn muốn làm cái mà các nhân viên hành chánh gọi là dịch vụ tối thiểu. Thiết tưởng đó là những lúc ai cũng phải trải qua trong kinh nghiệm đích thực về cầu nguyện.

Nếu ta kiên trì từng ngày, đôi khi từng phút, ta sẽ gần như có thể đụng chạm tới được ơn sủng Thiên Chúa đang hoạt động trong đời ta. Chúa ban cho ta đủ sức mạnh cần thiết, đủ can đảm tối thiểu để thức dậy đi đọc Kinh Đêm, cầm lấy cuốn sách kinh và mở ra được ít là một mắt! Ta nghiệm thấy rằng không phải ta cầu nguyện nhưng kinh nguyện giữ cho ta trung thành với các giờ kinh.

Người lữ hành Nga nói rất rõ về điều này trong những trình thuật mà ta đã biết. Chính lời cầu nguyện đã thúc đẩy ông, xâm chiến ông và giúp ông rong ruổi trên những lộ trình ngàn dặm mà theo sức mình ông không thể thực hiện được. Nếu chiều theo tính chểnh mảng sẽ không thể nào có được kinh nghiệm ấy. Vì khi đó Chúa sẽ để mặc cho ta yếu đuối, chểnh mảng và cằn cỗi đi.

Chương 19

CUNG CÁCH KHI HÁT THÁNH VỊNH

Ngày 25.2 – 26.6 – 26.10    

1 Ta tin Thiên Chúa hiện diện khắp nơi và mắt ngài hằng nhìn xem người lành kẻ dữ . 2 Nhưng ta càng xác tín điều này hơn khi tham dự Thần Vụ. 3 Vì thế, ta hãy nhớ lời ngôn sứ rằng: “Anh em hãy phụng thờ Chúa với lòng kính sợ”. 4 Lại rằng: “Hãy ca ngợi cho thật khéo”. 5 Và “Trước mặt các thiên thần, con ca ngợi Chúa”. 6 Vậy ta hãy xem mình phải có thái độ nào trước nhan Thiên Chúa và các thiên thần. 7 Ta hãy hát Thần Vụ thế nào cho tâm trí hoà hợp với lời ca.

Chú giải:

A – Ngày 25.2

Với thời gian, ta rất dễ quen với mọi sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày, như thần tụng chẳng hạn. Và cũng rất dễ đánh mất ý thức về điều mình đang sống. Sống dưới cái nhìn của Chúa, trước mặt các thiên thần, như thánh Biển Đức nhắc nhở, điều đó đòi phải có đức tin vững mạnh.

Đó là thái độ nội tâm sẽ biểu hiện nơi cách ta sống. Thánh Biển Đức nhấn mạnh điều này, vì ơn gọi của đan sĩ hệ tại việc tìm lại nơi bản thân sự thống nhất mà tội lỗi đã phá vỡ.

Khi con người yêu nhau, tình yêu sẽ thay đổi cách sống của họ, tới độ dần dần họ sẽ nên giống nhau. Đó là điều thánh Biển Đức nhắm tới trong việc thống nhất hóa con người, trong việc biến đổi nội tâm. Khi con tim tràn đầy Thiên Chúa, mọi sự sẽ thay đổi, cả đến công việc ta làm cũng thay đổi, vì ta làm là làm cho Chúa.

B – Ngày 26.6

Cảm thức về sự “Hiện diện của Chúa”, đó là bậc thứ nhất đức khiêm nhường, như thánh Biển Đức diễn tả ở chương 7. Và bậc khiêm nhường này được thể hiện đặc biệt trong phụng vụ. Kết quả là ta có được sự chăm chú trong việc cử hành giờ kinh. Như thế, khả năng chăm chú, ở khiêm nhường và sống trước sự hiện diện của Chúa có liên hệ mật thiết và cốt yếu với nhau.

Đúng vậy, nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy sự thiếu chăm chú cũng như những chia trí hầu hết là những hình thức co cụm lại với mình. Bị giam hãm trong những tâm tình, ý tưởng, cảm súc của mình, ta sẽ vô cảm trước sự hiện diện của người khác. Ta coi mình như trung tâm của thế giới này.

Thần vụ là ngôi trường kỳ diệu dậy ta biết thoát khỏi bản thân mình. Khi mời gọi ta nhẩm đi nhẩm lại Lời Chúa, thần vụ giúp ta ra khỏi mình, giải thoát ta khỏi cái tôi của ta. Thần vụ khiến ta không còn cho mình là trung tâm thế giới nữa.

Khi ta để cho Lời Chúa đưa ta ra khỏi cái tôi nhỏ bé của ta, đó là dấu ơn thánh đang hoạt động để dần dần kéo ta ra khỏi cái tôi giả tạo và làm cho ta thành những con người tự do. Đó là những con người có tâm hồn mở rộng để nhận ra sự hiện diện của Chúa.

C – Ngày 26.10

“Ta tin Chúa hiện diện khắp nơi” (c.1). Chính vì vậy mà “ta phải hát thần vụ thế nào cho tâm trí hòa hợp với lời ca” (c.7). Câu đầu và câu cuối của chương này liên kết chặt chẽ với nhau, diễn tả cách tóm tắt tất cả những gì thánh Biển Đức muốn dậy trong tu luật, diễn tả ngay chính mối tương quan mật thiết giữa mầu nhiệm Thiên Chúa và sự thống nhất đã được phục hồi của mầu nhiệm con người.

Nhưng thiết tưởng thánh Biển Đức muốn dẫn ta đi xa hơn nữa. Thực vậy, ngài cho ta cảm nhận rằng chính Thiên Chúa đưa ta trở về sự thống nhất nơi bản thân ta, rằng khi tiến lại gần Chúa ta cũng lại gần mình, rằng ta tái khám phá được sự thống nhất đã bị tan vỡ.

Với thánh Biển Đức, trên con đường tái kiến thiết này, phụng vụ giữ vị trí thiết yếu cũng như việc lao động chân tay và đời sống cộng đoàn. Quả thật, cũng như hai lãnh vực này, phụng vụ là ngôi trường đích thực dậy thống nhất nội tâm, tái tạo hữu thể. Khi dần dần đi sâu vào ý nghĩa các Thánh Vịnh, ta sẽ nhận ra vết thương nội tâm, sự rạn nứt trong linh hồn mình, do bởi sự dối trá, độc dữ, dục tính, ghen tương. Nhưng cũng nhờ các Thánh Vịnh mà ta có thể nhận ra giữa những tội lỗi của mình vết tích của Thiên Chúa, dấu hiệu về sự hiện diện của ngài.

Sống trước sự hiện diện của Chúa và tìm lại sự thống nhất nội tâm thực ra chỉ là một. Không thể có điều này mà lại thiếu điều kia. Và trong cuộc tái thiết thiêng liêng này, cầu nguyện, đặc biệt là cầu nguyện bằng Thánh Vịnh giữ vai trò cốt yếu. Vì ta càng tiến tới, Lời Chúa là Thánh Vịnh càng trở thành của riêng ta, ta nên như tác giả Thánh Vịnh, theo lời Cassianô trong bài Thuyết giáo X.

Chương 20

SỰ CUNG KÍNH KHI CẦU NGUYỆN

Ngày 26.2 – 27.6 – 27.10  

1 Khi muốn thỉnh cầu điều gì với người quyền thế, ta đã phải khiêm tốn lễ độ, 2 thì huống hồ với Thiên Chúa, Chủ Tể càn khôn, ta lại càng phải khẩn cầu cách rất mực khiêm cung, với lòng sốt sắng tinh tuyền. 3 Hãy ý thức rằng chẳng phải do nhiều lời nhưng chỉ cần một tâm hồn trong sạch, hòa với dòng lệ thống hối là được Chúa nhận lời. 4 Vì thế lời cầu nguyện phải ngắn gọn và tinh tuyền, trừ khi được ơn Chúa thúc đẩy mà kéo dài thêm. 5 Nhưng dù sao trong cộng đoàn, kinh nguyện phải rất vắn tắt, và khi bề trên vừa ra hiệu mọi người hãy cùng đứng lên.

Chú giải:

A – Ngày 26.2

Chương 20 này tuy ngắn gọn, nhưng là một khảo luận thực sự về cầu nguyện. Ta thấy ở đó mọi yếu tố căn bản: “sống trước nhan Thiên Chúa”, như đã nói ở chương 19, “khiêm tốn”, các đề tài về “sự tinh tuyền của con tim”, về “ơn nước mắt”, về “sự đơn giản” trong kinh nguyện. Sau cùng, trong hai câu, thánh Biển Đức nói đến hai phương diện của cầu nguyện trong đời sống đan tu: cầu nguyện riêng và cầu nguyện chung.

Thánh Biển Đức đứng trong truyền thống của các linh phụ sa mạc. Đối với các ngài, vấn đề không phải là kéo dài việc cầu nguyện, nhưng là “cầu nguyện không ngừng”. Từ nguyên tắc cơ bản này, các ngài đã xây dựng nên một khoa sư phạm đích thực về cầu nguyện, gồm những yếu tố nền tảng như sau: -cầu nguyện nhiều lần, vì tâm trí ta không thể liên tục chăm chú quá lâu; -đơn giản, vì cầu nguyện không phải là chuyện lải nhải dài dòng; -Lời Chúa: tất cả đều xoay quanh việc đọc, suy niệm và nghiền ngẫm Lời Chúa.

Thánh Biển Đức thêm một yếu tố riêng biệt của đời sống cộng tu, đó là cầu nguyện chung. Cùng nhau cầu nguyện không giống như cầu nguyện một mình. Quí khách rất thường súc động vì những giờ cầu nguyện chung của cộng đoàn, họ thấy như có điều gì mầu nhiệm đang hình thành ở đó. Họ cảm nhận được phần nào mầu nhiệm hiệp thông liên kết họ lại với nhau thành một thân thể. Tuy không trái ngược, nhưng cầu nguyện chung không phải là cầu nguyện riêng.

B – Ngày 27.6

Đôi khi có anh em đến nói với tôi về nỗi lo âu của họ. Họ nhận thấy trong cộng đoàn ngày càng ít có anh em đến nhà thờ cầu nguyện, hay đọc sách ở phòng đọc sách chung. Đôi khi họ còn than phiền vì bầu khí trong nhà không đủ thinh lặng và tĩnh niệm cần thiết cho đời sống nội tâm đích thực nữa.

Tuy nhiên, vấn đề không hệ tại ở nơi chốn. Cũng không phải không có thời giờ. Có lẽ công việc ở cộng đoàn ta còn nhẹ nhàng hơn ở nhiều cộng đoàn khác. Một anh em nói khôi hài rằng càng ít làm việc thì ta càng ít cầu nguyện. Vậy vấn đề bởi đâu mà tới?

Ta có thể nhận ra lời giải đáp trong câu nói khôi hài của một viện phụ kia khi ngài bảo đọc Lời Chúa và cầu nguyện thì hoàn toàn khác với ăn khoai chiên. Khoai ăn chẳng mấy chốc mà no, nhưng càng đọc, càng cầu thì càng đói. Càng cầu nguyện, càng nghiền ngẫm Lời Chúa, ta càng thấy cần cầu nguyện và cần đọc Lời Chúa nhiều hơn.

Như vậy, chán ngán không phải là vì nhiều quá, nhưng là vì chưa đủ. Nếu ta không thấy muốn cầu nguyện nữa, đó là vì ta cầu nguyện chưa đủ, vì ta cầu nguyện mà chẳng ra cầu nguyện. Chính khi cầu nguyện ta mới học biết cầu nguyện, mới có được sự ham thích cầu nguyện, và khi ấy cầu nguyện mới trở thành hơi thở của đời ta.

C – Ngày 27.10

Ở chương 19, thánh Biển Đức mời gọi đan sĩ tập chăm chú khi cầu nguyện, để, như ngài nói, “tâm trí hòa hợp với lời ca”. Ở chương 20 này, ngài mời gọi ta thăng tiến trong việc thống nhất bản thân, điều mà ngài đã nhắm tới ở chương 19. Vì vấn đề không phải là cầu nguyện nhưng là trở thành lời cầu nguyện.

Ơn cầu nguyện đã có ở trong ta đòi ta phải nhận ra một khoảng cách, một sự cách biệt. Đó là ý nghĩa đầu tiên của từ “reverentia”, một từ hàm ý đoan trang, kính nể, kính sợ, tôn kính. Cầu nguyện không phải là đọc cho thật nhiều hay là dịp để phô trương. Cầu nguyện được nuôi dưỡng bằng cảm nghiệm về mối căng thẳng giữa sự hiện diện và khiếm diện của một Đấng Khác. Đó là trò chơi tình yêu như được mô tả trong sách Nhã ca, mà bao lần các Giáo Phụ đã nhắc tới và chú giải.

Thánh Biển Đức phân biệt hai điều đặc trưng: tâm hồn trong sạch (hay con tim tinh tuyền) và lòng sám hối. Từ “tinh tuyền” hay “trong sạch” được dùng tới ba lần trong chương này. Cassianô coi con tim tinh tuyền như mục đích của đời đan tu, trong khi đó cùng đích là sự sống đời đời. Để diễn tả sự khác biệt giữa mục đích và cùng đích ông so sánh giữa hai đối tượng mà người thi bắn cung nhắm tới: tấm bia và phần thưởng (x. Bài TG I).

Chương 21

CÁC TRƯỞNG NHÓM MƯỜI NGƯỜI

TRONG ÐAN VIỆN

Ngày 27.2 – 28.6 – 28.10  

1 Nếu cộng đoàn đông thì hãy chọn trong anh em những người có hạnh kiểm tốt và đời sống thánh thiện mà đặt làm trưởng nhóm mười người. 2 Họ sẽ săn sóc cho anh em nhóm mình trong mọi sự đúng luật Chúa và theo chỉ thị của viện phụ. 3 Hãy lựa chọn các trưởng nhóm làm sao để viện phụ có thể an tâm chia sẻ gánh nặng của ngài cho họ. 4 Đừng chọn theo thứ tự, nhưng theo công trạng đời sống và đạo lý khôn ngoan. 5 Nếu không may trong các trưởng nhóm có ai sinh kiêu căng đáng khiển trách, thì hãy cảnh cáo một, hai hoặc lần thứ ba. Nếu không chịu sửa mình, thì bãi chức 6 và đặt người khác xưng đáng lên thay. 7 Về viện phó, cha cũng quy định như thế.

Chú giải:

A – Ngày 27.2

Mười như thể mười ngón tay, mười như thể mười hạt trong một chục kinh Kính Mừng. Thánh Biển Đức ý thức rằng quá con số mười sức năng động của nhóm sẽ thay đổi, và tương quan giữa các thành viên của nhóm sẽ mang một kiểu cách khác.

Chủ định của thánh Biển Đức là một nhóm với mười người sẽ cho ta có thể có những lúc sống gần gũi nhau hơn, chia sẻ với nhau mật thiết hơn. Những điều đó một nhóm lớn hơn sẽ khó mà thực hiện được, vì còn có những mối quan tâm khác nữa.

Đối với ta, đó là vấn đề anh em nâng đỡ nhau. Ta cảm thấy có nhu cầu và cần thiết phải nâng đỡ nhau để thăng tiến, nhưng ta không biết phải nâng đỡ nhau như thế nào trong đời sống cộng đoàn. Thánh Biển Đức cống hiến cho ta những hướng suy tư. Mức độ lớn nhỏ của một nhóm phải thích ứng với mục đích của nhóm. Hình thức luôn luôn là để phục vụ cho nội dung.

B – Ngày 28.6

Vai trò của các trưởng nhóm, những viên chức trong đan viện, đó là giúp cho viện phụ được an tâm. Thánh Biển Đức nhấn mạnh là viện phụ phải cảm thấy được an tâm về họ, để ngài có thể chia sẻ cho họ gánh nặng trách nhiệm của ngài.

Điều ấy có thể hiểu về mỗi chức vụ trong cộng đoàn, dù khiêm tốn tới đâu. Trong truyền thống Biển Đức, viện phụ chịu trách nhiệm về tinh thần cũng như vật chất. Thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ quan tâm đến mọi lãnh vực: chăm sóc bệnh nhân, kéo chuông giữ hiệu, kích thước y phục, phân lượng thức ăn v.v. Nhưng một người sao có thể làm hết. Vì thế tu luật mời gọi mỗi người dự phần vào chức vị làm cha của viện phụ. Một cách nào đó, mỗi người ở vị trí của mình đều mang lấy một chút sự ân cần chăm sóc của viện phụ về tinh thần cũng như vật chất.

Các vấn đề sẽ nảy sinh khi một anh em coi nhiệm vụ được ủy thác như là việc của riêng mình, khi biến công việc mình phụ trách thành lãnh vực riêng tư, khi tìm cách lôi kéo anh em, tạo thành phe phái, làm phương hại đến cộng đoàn. Khi đó, thánh Biển Đức tỏ ra thật là cương quyết. Ngài muốn người anh em ấy phải bị bãi nhiệm và được thay thế bằng một anh em xứng đáng hơn.

Điều quan trọng là tự vấn về cách ta thi hành nhiệm vụ. Thực vậy, sự bổ trợ luôn luôn đòi phải có hai điều cơ bản, đó là ý thức về vai trò phục vụ người khác (phải có sự ân cần) và tường trình công việc với viện phụ.

C – Ngày 28.10

Trong chương về các trưởng nhóm này ta gặp lại nhiều yếu tố phân định đã được thánh Biển Đức nói đến ở các chương liên quan đến viện phụ, viện phó, quản lý và những chức vụ khác trong đan viện. Có những yếu tố chung: công trạng đời sống và giáo lý khôn ngoan, sự chăm sóc anh em và mối nguy kiêu ngạo; rồi những yếu tố đặc thù: sự tôn trọng các lệnh truyền của viện phụ.

Nhưng ở đây thánh Biển Đức còn thêm một yếu tố khác cũng thấy có nơi chương 32, đó là từ “securus”, được dịch ra bằng cả một câu: “để viện phụ có thể an tâm” (c.3). Trong khi chương 21 này nói về trách nhiệm đối anh em, thì chương 32 đề cập tới tài sản của đan viện.

Một trong những vai trò cốt yếu của những người có chức vụ trong cộng đoàn là giúp cho viện phụ được an tâm để ngài có thể dồn sức lực vào những nhiệm vụ quan trọng hơn. Nếu phải bận tâm với những vấn đề như lo về trật tự, kỷ luật, sắp xếp công việc v.v. ngài sẽ không còn thời giờ để chu toàn những nhiệm vụ chính yếu nữa.

Vai trò của các vị hữu trách trong cộng đoàn giúp cho gánh nặng của viện phụ nhẹ đi chứ không làm cho nặng thêm bằng cách để mặc mọi sự hay tạo ra các vấn đề. Khi một người chu toàn công tác của mình, thì điều đó sẽ ích lợi cho mọi người. Ngay cả công việc hèn mọn nhất, có tính cách vật chất hơn cả, nếu được thực hiện tốt cũng góp phần xây dựng đời sống thiêng liêng của cộng đoàn. 

Chương 22

CÁC ĐAN SĨ

PHẢI NGỦ NGHỈ THẾ NÀO?

Ngày 28.2 – 29.6 – 29.10  

1 Mỗi người ngủ riêng một giường, 2 chăn nệm tùy cảnh sống và như viện phụ ấn định. 3 Nếu có thể, mọi người ngủ chung một nơi, nhưng nếu không thể được vì đông quá, thì ngủ từng nhóm mười hay hai mươi người, có đàn anh coi sóc họ. 4 Trong phòng ngủ, phải thắp đèn cho đến sáng. 5 Nằm ngủ phải ăn mặc chỉnh tề, thắt lưng dây da hay dây gai, chớ đeo dao bên mình, sợ rằng mê ngủ mà bị thương. 6 Các đan sĩ hãy luôn sẵn sàng để khi vừa nghe hiệu là dậy ngay và đua nhau nhanh chân đi cử hành Thần Vụ, tuy nhiên vẫn phải hết sức trang nghiêm và nết na. 7 Giường các anh em trẻ hơn đừng đặt cạnh nhau, nhưng được xen kẽ với giường anh em cao niên. 8 Khi thức dậy đi đọc Thần Vụ, anh em hãy nhẹ nhàng đánh thức nhau, để người mê ngủ khỏi viện cớ chữa mình.

Chú giải:

A – Ngày 28.2

“Các đan sĩ hãy luôn luôn sẵn sàng”. Sự tỉnh thức là một trong những nét đặc trưng căn bản của ơn gọi đan tu. Với thánh Biển Đức, tỉnh thức trái ngược với ngủ say, ngái ngủ, ươn lười, buông xuôi. Đó là sống trong tình trạng canh thức. Nhưng canh thức như thế nào?

Những thành ngữ đồng nghĩa có thể hiểu về những lãnh vực rất khác nhau. Trong quân đội, người ta có những thành ngữ như cảnh giác, trực chiến. Ta cũng có thể nghĩ tới người trực đêm ở bệnh viện, tới anh em y tá coi chừng bệnh nhân. Ta cũng có thể nói về việc chờ đợi người yêu hay bạn tri kỷ, về niềm vui đợi chờ của người canh thức.

Canh thức không có nghĩa là giám sát. Nhưng có nghĩa là chăm chú, lắng nghe, lòng trí tỉnh táo.

Trong truyền thống đan tu hình ảnh người canh thức qui chiếu về Tv 101, 8: “Suốt đêm trường con tỉnh thức, như chim đơn độc trên mái nhà”. Chim đây là con cú. Con cú là biểu tượng cho đời đan tu, vì đó là con vật thức về đêm, đôi mắt mở to nhìn vào bóng tối và thấy được những vật mà không mắt nào có thể nhận ra. Người canh thức không phải chỉ là người không ngủ, nhưng còn là người nhìn, nhìn vào nơi mà người khác không nhìn thấy gì cả.

B – Ngày 29.6

Các đan sĩ không phải là thiên thần, họ cũng phải ngủ. Ở đây thánh Biển Đức nói về giờ ngủ chính thức, chứ không phải là ngủ trong giờ thần vụ, ở phòng đọc sách hay ở nhà hội. Về giờ thần vụ thì những chương trước đây đã nhấn mạnh tới tác phong và sự tôn kính khi cử hành thần vụ và cầu nguyện. Ta không nhắc lại nữa.

Vậy các đan sĩ cần phải ngủ. Đối thánh Biển Đức, việc đan sĩ ngủ nghỉ không phải là điều phụ thuộc hay làm mất thời giờ vô ích. Ngủ là một phần của đời sống ta, gần như hết một phần ba cuộc đời. Như vậy một anh em chín mươi tuổi đã bỏ ra ba mươi năm để ngủ! Những nghiên cứu về giấc ngủ cho thấy rằng ngủ không chỉ cần để sống, nhưng một cách nào đó, ngủ còn là diện ẩn khuất của cuộc sống, nơi mà hữu thể ta được phục hồi.

Trái với điều ta nghĩ, ta không chỉ sống khi có ý thức. Ngay cả khi ý thức không hoạt động, ta vẫn tiếp tục sống. Vì thế, thánh Biển Đức cũng quan tâm tới miền đất bí ẩn còn rất hoang vu này, tức là giấc ngủ, để mang Tin Mừng tới đó.

Mọi truyền thống thiêng liêng lớn, cả ngoài Kitô giáo, đều quan tâm tới giấc ngủ, tới những liên hệ của giấc ngủ với cuộc sống có ý thức. Điều ta có thể giấu người khác và giấu chính mình thì dường như được tỏ bày trong giấc ngủ dưới hình thức những giấc mơ hay những cách biểu lộ khác. Vì thế, đối với thánh Biển Đức, giấc ngủ chuẩn bị cho cuộc sống ý thức của ta. Tất cả lệ thuộc vào những gì ta thu tích lại trong đầu, theo cách ta sống cuộc sống có ý thức. Việc chuẩn bị thiêng liêng này, đi đôi với việc chuẩn bị thể lý, là điều cốt yếu, vì ngủ là lúc ta phục hồi sức lực.

C – Ngày 29.10

Trong tu luật, điều làm ta ngạc nhiên hơn cả đó là thánh Biển Đức quan tâm đến những cái mà có lẽ ta không để ý tới: đồ ăn thức uống, thứ tự trong cộng đoàn, việc làm, cách ngủ nghỉ. Thánh nhân còn coi những việc ấy là quan trọng tới độ dành cho mỗi thứ cả một chương trong tu luật của ngài, trong khi đó việc suy niệm, đọc sách, cử hành Thánh Thể ngài chỉ nói lướt qua. Thật là đáng ngạc nhiên!

Tại sao thánh Biển Đức làm thế? Tại sao ngài quá quan tâm đến những cái mà ta cho là tầm thường như vậy? Để giải đáp những thắc mắc này, thiết tưởng ta phải vượt qua trạng thái cụ thể của sự việc để hiểu cái trực giác cơ bản của thánh nhân. Trực giác nào? Thiết nghĩ có thể tóm tắt như sau: Thiên Chúa đã tạo dựng con người như một hữu thể thống nhất; tội lỗi đã phá hủy sự thống nhất nơi con người, khiến họ thành một hữu thể bị phân chia; con đường đan tu là con đường dẫn trở lại sự thống nhất đó. Khi mang lấy xác thịt ta, Chúa Kitô làm cho xác thịt ta trở thành con đường dẫn về với Thiên Chúa. Ngài làm cho cuộc sống cụ thể của ta cùng với mọi hoạt động của nó thành một con đường thiêng liêng.

Đặc trưng cơ bản của linh đạo đan tu, của linh đạo Kitô giáo, là tất cả mọi sự đều có thể trở thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Không có công việc cao quí và công việc hèn mọn, nhiệm vụ thiêng liêng và nhiệm vụ trần tục. Tất cả đều trở thành nơi Thiên Chúa có thể đến gặp ta, nếu ta có mặt khi ta làm việc, dù là những việc khiêm tốn nhất, tầm thường nhất.

Chương 23

HÌNH PHẠT TUYỆT THÔNG

CHO CÁC LỖI

Ngày 29.2 – 30.6 – 30.10     

1 Nếu anh em nào tỏ ra bưởng bỉnh, bất tuân, kiêu căng, lẩm bẩm hoặc phản kháng một điều gì trong tu luật, và coi thường lời chỉ giáo của các bậc niên trưởng, 2 hãy theo lời Chúa dạy, đàn anh kín đáo cảnh cáo một hai lần. 3 Nếu không sửa mình, hãy khiển trách công khai trước mặt mọi người. 4 Nếu thế cũng không tu chỉnh, sẽ bị tuyệt thông, miễn là họ có thể hiểu được sự nặng nề của hình phạt ấy. 5 Còn nếu là con người kém trí, họ sẽ bị phạt nơi thân xác.

Chú giải:

A – Ngày 29.2

Trái ngược với điều ta có thể nghĩ, chương này vẫn áp dụng được cho ngày nay, và ta cũng có thể quả quyết rằng nó sẽ liên quan đến tất cả chúng ta một ngày nào đó. Vì sự bướng bỉnh, bất tuân, ngạo mạn, kêu ca, óc chống đối vẫn rình rập ta. Không ai trong chúng ta thoát được những khuynh hướng tinh vi ấy vẫn hằng gặm nhấm lòng con người. Và vấn đề đích thực là ta trở nên hoàn toàn mù quáng về mình và về thực tại.

Với thánh Biển Đức, vấn đề không phải chỉ là một anh em nào đó làm xáo trộn sự bình an của cộng đoàn, gây mất trật tự. Điều quan trọng hơn chính là sự mù quáng ấy có nguy cơ lôi kéo người anh em ấy đến thảm họa. Anh ta rất dễ khép kín trong cái vỏ ốc của mình và đi tới chỗ hoàn toàn mất tương quan với thực tại.

Vì thế, thánh Biển Đức thúc dục bề trên phải can thiệp. Quả thực, có thể có thứ nhẫn nại đáng trách, thứ nhẫn nại sai lầm, cứ để người anh em muốn làm gì thì làm và sẽ dẫn họ tới chỗ ẩn mình trong cái tiểu thế giới của họ. Trong chương này thánh Biển Đức nhắc bề trên nhớ đến bổn phận của mình. Vấn đề không phải là bẻ gẫy cây sậy đã dập hay dụi tắt tim đèn còn khói, nhưng tránh cho nó khỏi tàn lụi đi.

Ta không có quyền bỏ rơi bất cứ người anh em nào Chúa đã ủy thác cho ta. Mỗi người trong vị trí của mình, ta phải giơ tay nâng đỡ để họ khỏi sa vào cạm bẫy. Viện phụ phải can thiệp, vì đó là bổn phận của ngài, nhưng mọi thành viên khác của cộng đoàn cũng phải quan tâm. Tất nhiên không phải mọi người đều có trách nhiệm sửa bảo hay loại trừ, nhưng mỗi người có thể mở mắt cho người anh em, khi tránh tự mãn, và cả khi sống thật với chính mình, để ăn ở trung thành và cầu nguyện cho anh em mình.

B – Ngày 30.6

Đối với thánh Biển Đức, nếu ra hình phạt tuyệt thông là do quyền viện phụ, thì ngược lại, sửa lỗi lại thuộc trách nhiệm các vị cao niên. Ta có bổn phận tỉnh táo trợ giúp nhau. Anh em ta có quyền được ta quan tâm để ý, dù đôi khi thật là khó khăn.

Cảm thức về trách nhiệm và đồng trách nhiệm là điều nằm trong trung tâm quan niệm của thánh Biển Đức về cộng đoàn, và về cộng đoàn huynh đệ. Chỉ lo sống lấy mình mà quên anh em chung quanh mình thì không được. Ta không phải là những vị ẩn tu sống trong cộng đoàn, nhưng là những đan sĩ cộng tu sống trong sa mạc.

Nhưng điều ấy có nghĩa gì? Quả thực, một trong những nguy cơ có thể xẩy ra là lúc nào cũng theo dõi anh em, vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, chỉ muốn sửa dậy. Như thế thì chẳng mấy chốc sẽ khiến cho cuộc sống chung không thể nào chịu nổi nữa. Thực ra, vấn đề không phải là giám sát hay theo dõi, nhưng là quan tâm để ý đến anh em.

Quan tâm để ý, tức là tỉnh táo, trau dồi đức tính biết chú ý, biết lắng nghe, tức là bày tỏ tình yêu khiêm tốn và tế nhị, là dệt nên những mối giây liên kết trong cộng đoàn. Người đã bày tỏ tình yêu ấy cách sâu sắc nhất chính là thánh Phaolô, khi ngài tuyên bố vui với người vui, khóc với người khóc, hiệp thông với mọi đau khổ của tha nhân. Vì ta tin rằng chỉ ai biết chia sẻ cho người khác điều tốt nhất nơi mình, mới có thể can thiệp vào điều chưa tốt mấy nơi họ.

C – Ngày 30.10

Ai đã tự do chọn đi vào đời sống đan tu là đã chọn ba điều: Họ chọn sống theo một qui luật, dưới quyền một viện phụ, trong một cộng đoàn. Nếu không, họ chẳng cần đến đan viện làm gì. Đời sống đan tu đòi phải có ba điều căn bản này, mà đối với mỗi người chúng ta, một ngày nào đó, sẽ là một trở ngại, một nơi thẩm định ơn gọi của ta.

Thực vậy, một ngày nào đó, ta sẽ phải giáp mặt với những chỉ thị của tu luật còn khắt khe hơn ta tưởng, với những quyết định của viện phụ đi ngược lại ước muốn và ý riêng của ta, với cộng đoàn nơi ta cảm thấy bị loại trừ, thấy mình như người xa lạ.

Những diễn tiến của hình phạt được nói trong chương 23 này chỉ là phác họa kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta sẽ phải trải qua vào một lúc nào đó trong đời mình. Vì mối nguy lớn nhất rình rập đan sĩ chính là lặng lẽ tách mình ra bên lề cộng đoàn, thói quen không vâng phục, từ khước sống ơn gọi làm đan sĩ.

Vì thế, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới tiến trình công khai hóa lỗi phạm bằng hình phạt tuyệt thông. Điều tệ nhất không phải là sai lỗi, nhưng là ra bộ như không biết gì, và thanh minh cho điều mình đã làm. Điều tệ nhất là để mặc cho một anh em cứ sai lầm, cứ lỗi phạm mãi mà không giơ tay cứu vớt họ. Nhưng để giúp họ thì cần phải nói cho họ biết sự thật. Ta có can đảm làm được vậy không? Phải chăng đôi khi, để cho yên thân thì cứ làm như không thấy gì vậy? Muốn chữa lành một vết thương, ta phải có nhiều can đảm.

Chương 24

MỨC ÐỘ TUYỆT THÔNG

 Ngày 1.3 – 1.7 – 31.10   

1 Mức độ tuyệt thông hay hình phạt tùy theo tính chất nặng nhẹ của lỗi phạm, 2 và nặng nhẹ thế nào là tùy viện phụ xét định. 3 Anh em có lỗi nhẹ sẽ không được dùng cơm chung với mọi người. 4Ai không được dùng cơm chung phải theo quy chế này: trong nhà nguyện không được xướng Thánh Vịnh và tiền ca, cũng không được đọc bài đọc, cho đến khi đền tội xong. 5 Giờ cơm, họ sẽ ăn một mình sau anh em, độ lượng và thì giờ tùy như viện phụ xét thế nào là thích hợp. 6 Chẳng hạn anh em ăn vào giờ thứ sáu, người bị phạt sẽ ăn vào giờ thứ chín; anh em ăn vào giờ thứ chín thì người ấy sẽ ăn vào giờ chiều; 7 cứ như thế cho đến khi đền tội xong và được tha.

Chú giải:

A – Ngày 1.3

Những chương về hình phạt tuyệt thông trong tu luật Biển Đức đề cập tới bốn điểm cơ bản: nguyên nhân, hình phạt, kẻ phạm lỗi, người can thiệp. Tôi đề nghị ta xem xét kỹ hơn hai điểm sau. Ta sẽ bắt đầu từ người can thiệp, tức là viện phụ.

Trước hết, cần nêu lên một phân biệt về từ ngữ. Trong ngôn ngữ thông dụng ta thường dễ lẫn lộn giữa hai khái niệm rất khác nhau, đó là quyền bính và quyền lực. Tuy nhiên, cội rễ của hai từ này có thể giúp ta phân biệt ý nghĩa của chúng.

Trong tiếng la tinh, quyền bính là “auctoritas” đến từ “auctor” nghĩa là tác giả; “auctor” lại đến từ “augere” là làm cho lớn lên. Như vậy, trong khái niệm quyền bính có hai ý: ý về nền tảng mà ta có thể dựa vào và ý về sự mời gọi lớn lên, trưởng thành lên, vượt qua những giới hạn của ta lúc này. Do đó, quyền bính thuộc về lãnh vực hữu thể và mời gọi vào hiện hữu.

Khái niệm quyền lực thì hơi khác. Khái niệm này bao hàm ý tưởng về khả năng, hiệu năng, làm chủ, sức mạnh, khả thể. Ngữ nguyên ấn âu của từ này qui chiếu về người thủ lãnh bộ tộc. Như vậy là thuộc phạm vi hành động nhiều hơn.

Quyền lực là để phục vụ quyền bính, tức là quyền lực có đó để giúp cho lớn lên, để giúp đạt tới hữu thể, tới mức độ trưởng thành. Vậy ta phải hiểu chương 24 của tu luật trong bối cảnh này. Hình phạt tuyệt thông, thuộc phạm vi quyền lực, hướng tới một mục đích hoàn toàn khác với thứ quyền lực thống trị. Hình phạt này nhằm giúp cho lớn lên, giúp cho tiến tới sự trưởng thành.

B – Ngày 1.7

Mỗi năm ba lần ta đọc lại những chương nói về việc sửa lỗi. Thánh Biển Đức đề cập nhiều tới các hình thức sửa chữa và sám hối, nhưng lại chẳng nhắc gì đến tính chất các lỗi phạm. Ngài chỉ nói đơn giản ở câu 2: “Lỗi nặng nhẹ thế nào là do viện phụ xét định”. Như vậy, phải chăng mọi sự đều tùy thuộc vào xét định của viện phụ? Chắc không phải thế. Có lẽ ta phải hiểu những chương nói về việc sửa lỗi trong một bối cảnh rộng hơn của tu luật.

Với người vào đan viện để thực tâm tìm Chúa, thánh Biển Đức đề nghị ba phương tiện căn bản giúp họ vượt qua được mọi khó khăn, mọi cám dỗ, mọi thử thách. Ngài đề nghị những phương tiện ấy ngay từ câu thứ nhất của Lời mở đầu tu luật, và ta có thể tóm gọn bằng ba động từ: lắng nghe, đón nhận, thi hành.

Ta có thể nghĩ rằng những lỗi nặng mà viện phụ phải can thiệp chính là những cách sống đối nghịch với ba động từ căn bản đó trong đời đan tu. Động từ thứ nhất: lắng nghe, giả thiết ta phải ý thức rằng mình không biết gì, mình cần lời Chúa và lời của người khác. Động từ thứ hai: đón nhận, cho thấy lời ta nghe bằng tai sẽ đi vào tâm hồn chứ không bay theo gió. Sau cùng, động từ thứ ba: thi hành, bày tỏ một trong những trực cảm căn bản của thánh Biển Đức, khi ngài lặp lại một trong những lời Chúa thường khiển trách người pharisiêu: “Họ nói mà không làm”.

Trong bối cảnh này, vai trò can thiệp của viện phụ là giúp người anh em ý thức lại ơn gọi sống Phúc Âm Chúa Kitô. Viện phụ có trách nhiệm cảnh giác, nhắc nhở và bảo vệ anh em nào muốn chọn con đường dẫn tới sự chết bằng thái độ, lời nói hay hành động. Dĩ nhiên, ơn Chúa mới đánh động lòng người, nhưng cũng cần phải nói lên một lời cảnh giác vào lúc thuận tiện.

C – Ngày 31.10

Thoạt tiên, có vẻ hơi kỳ lạ vì hằng năm cứ vào dịp lễ Các Thánh, ta lại nghe đọc những chương nói về hình phạt tuyệt thông. Như thể cái ngẫu nhiên của lịch phụng vụ muốn giúp ta hiểu thế nào là sự thánh thiện, trái ngược với tội lỗi. Dầu sao thì chương 24 này dậy ta rất nhiều về cách nhìn của thánh Biển Đức đối với sự thánh thiện đan tu.

Thực vậy, với thánh nhân, nếu lỗi phạm có làm cho ta bị tuyệt thông, bị loại trừ khỏi cộng đoàn, chính là vì sự thánh thiện có liên hệ tới cộng đoàn, tới mối hiệp thông huynh đệ. Khi mà thời đại ta luôn luôn nhấn mạnh tới chiều kích cá nhân, riêng tư của sự thánh thiện, thì trái lại, thánh Biển Đức dường như chú trọng tới chiều kích hội nhập vào một thân thể, chiều kích Giáo Hội, nếu có thể nói như thế.     

Ta có thể tóm tắt sự thánh thiện đan tu bằng câu sau đây: sự thánh thiện đan tu là ở đúng chỗ của mình trong nhiệm thể cộng đoàn. Như vậy, không chỉ giá trị cá nhân, mà ta gọi là các nhân đức, mới đáng kể, nhưng cả khả năng ở vào đúng chỗ của mình và phát huy ân huệ Chúa ban để phục vụ toàn nhiệm thể.

Đan sĩ nào không chịu ở vào đúng chỗ của mình trong thân thể cộng đoàn, không chịu phát triển những khả năng Chúa ban để phục vụ tiểu Giáo Hội là cộng đoàn đan tu, sẽ tự loại mình ra khỏi trường đào tạo thánh nhân là chính cộng đoàn ấy.

Chương 25

NHỮNG LỖI NẶNG HƠN

Ngày 2.3 – 2.7 – 1.11   

1 Anh em nào phạm lỗi nặng hơn, sẽ bị tuyệt thông nơi bàn cơm và cả nơi nhà nguyện. 2 Không ai trong anh em được giao tiếp hay chuyện vãn với người ấy. 3 Cứ để người ấy một mình làm việc đã chỉ định, kiên trì khóc lóc đền tội và suy niệm lời tuyên án khủng khiếp của thánh Tông Đồ: 4 “Con người đó đã bị án tử nơi thân xác để linh hồn được cứu sống trong ngày Chúa đến”. 5 Người đó sẽ ăn một mình, theo độ lượng và giờ giấc do viện phụ ấn định. 6 Ai đi qua không được chúc lành cho họ và thức ăn của họ.

Chú giải:

A – Ngày 2.3

Việc trích dẫn đoạn thư Côrintô thật là hay. Thực vậy, bản văn 1 Cr 5,5:“Con người đó đã bị án tử nơi thân xác để linh hồn được cứu sống trong ngày Chúa đến” nói về trường hợp một người sống với vợ của cha mình, và được áp dụng vào trường hợp những lỗi nặng trong cộng đoàn đan tu.

Thánh Biển Đức sử dụng hình phạt tuyệt thông vì hai lý do. Thứ nhất, để cho thấy thế nào là một lỗi nặng: đó là một lỗi phạm trái với Phúc Âm, công khai, gây thương tổn cho cả cộng đoàn. Như vậy, hình phạt tuyệt thông không áp dụng cho những lỗi thầm kín. Nhưng đây là cách xử lý những lỗi nặng gây gương xấu khiến những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói tới có nguy cơ vấp ngã.

Lý do thứ hai là để xác định thế nào là một hình phạt. Theo bản văn của thánh Phaolô được trưng dẫn thì đó là một hình phạt trị liệu nhằm cứu chữa linh hồn. Và duy mình Thiên Chúa mới đánh động được lòng người, nên ở đây hình phạt thân xác có mục đích giúp phạm nhân ý thức lại, giúp họ thức tỉnh lương tâm.

Đôi khi ta tưởng rằng nhân từ là quay mặt đi, là làm như không thấy, là nhẫn nại chịu đựng. Và như vậy là để cho người anh em lún sâu mãi vào lầm lỗi. Có những lúc một phản ứng lành mạnh của người khác sẽ giúp ta ý thức lại điều ta đã làm, thức tỉnh ta, dù rằng ngay lúc ấy có thể làm ta cực lòng.

B – Ngày 2.7

Như ta đã thấy, điều cốt yếu để hiểu được những chương về hình phạt tuyệt thông là đặt mình vào một bối cảnh rộng lớn hơn của tu luật. Và ta đã nêu lên ba động từ được thánh Biển Đức dùng trong câu thứ nhất của Lời mở đầu. Đó là ba động từ xác định thái độ tinh thần của đan sĩ: lắng nghe (với hàm ý vâng lời), đón nhận, thi hành.

Tôi muốn nhắc lại ý tưởng trên đây dựa theo lời thánh Bênađô ở một bài giảng trong tuần lễ Hiển Linh. Thánh nhân giải thích đoạn Phúc Âm tường thuật tiệc cưới Cana với một ngôn ngữ độc đáo khi nói về sáu cái chum mà Chúa Giêsu bảo các người giúp việc đổ đầy nước vào.

Nếu ta đã bỏ mất lòng đạo đức và nhiệt thành thủa ban đầu, nếu con tim ta trở nên trống rỗng hay chứa đầy nọc độc ghen tương, kêu trách, oán giận và gièm pha, thì thánh Bênađô sẽ cho ta một phương thuốc rất đơn sơ, rất hiệu nghiệm. Thay vì mất thời giờ để than thân trách phận, để trách móc Chúa hay anh em, ta hãy đến múc nước từ sáu chum ấy, dù việc này khó khăn vất vả, nhưng sẽ mang lại kết quả tốt đẹp. Một ngày nào đó, Chúa Giêsu sẽ biến đổi nước ấy thành rượu ngon, thứ rượu tiệc cưới hảo hạng. Vì ta được mời đi dự tiệc cưới.

C – Ngày 1.11

Như ta đã thấy, đời sống đan tu là một tiến trình hội nhập lâu dài, là cửa dẫn vào sự hiệp thông của thân thể tức là cộng đoàn đan tu. Đối nghịch với cửa vào là sự loại trừ, hay tuyệt thông. Điều này thật tới độ thánh Biển Đức đã nhắc lại lời thánh Phaolô trong thư 1 Côrintô 5, 5 nơi đó thánh Tông Đồ ám chỉ đến việc loại trừ phạm nhân ra khỏi Giáo Hội.

Án tuyệt thông liên hệ tới hai trong những nơi quan trọng của đời sống cộng đoàn. Đó là hai nơi thể hiện rõ nhất việc hội nhập vào cộng đoàn: nhà nguyện và nhà cơm. Hai nơi diễn tả ơn gọi hiệp thông của mọi kitô hữu.

Đối với thánh Biển Đức, dấu hiệu riêng biệt của ơn gọi đan tu chính là cử hành bí tích Thánh Thể, cầu nguyện và dùng bữa chung, như cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem xưa kia. Loại trừ không có nghĩa gì khác hơn là từ chối đi vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh, đấng ngự giữa các môn đệ của ngài khi họ cùng nhau tụ họp.

Đây không phải là quá câu nệ vào cộng đoàn, nhưng là một kinh nghiệm sống đã có từ thời khai nguyên Giáo Hội. Không phải là xóa bỏ những khác biệt, nhưng kinh nghiệm sống ấy là điều kiện để duy trì những khác biệt. Muốn thực sự bổ túc cho nhau thì luôn luôn cần đến hiệp thông.

Chương 26

ANH EM KHÔNG CÓ PHÉP MÀ GIAO TIẾP

VỚI NHỮNG NGƯỜI BỊ TUYỆT THÔNG

Ngày 3.3 – 3.7 – 2.11   

1 Anh em nào không có phép viện phụ mà tự ý giao tiếp với người bị tuyệt thông bằng bất cứ cách nào, hoặc nói chuyện hay loan báo điều gì, 2 sẽ bị cùng một vạ tuyệt thông.

Chú giải:

A – Ngày 3.3

Ta có thể tự hỏi tại sao thánh Biển Đức xử ngặt như thế đối với anh em “tiếp xúc với người bị tuyệt thông”. Tại sao quá nghiêm khắc như vậy, trong khi ở chương 27 ngài lại nhắc nhở viện phụ phải hết sức ân cần chăm sóc những anh em phạm lỗi? Có lẽ trước hết nên tự hỏi về những lý do có thể xui khiến một anh em bận tâm đến những người bị phạt.

Có thể có hai loại lý do khác nhau. Thứ nhất, có những anh em cảm thấy được mời gọi hành xử như người samaritanô nhân hậu. Họ coi việc người anh em bị tuyệt thông như một thương tích gây ra cho ước muốn hiệp nhất và hiệp thông của họ. Với những anh em này, mọi tranh chấp đều khơi dậy từ đáy lòng họ một nỗi khắc khoải. Vì vậy, đến với người bị phạt chính là đì tìm cách làm cho nguôi ngoai đi nỗi khắc hoải ấy.

Nhưng cũng có một loại lý do thứ hai, đó là lý do liên quan tới những người luôn luôn chống đối bề trên, những người có vấn đề với quyền bính. Những người này cũng tìm cách lo đến vấn đề của họ khi họ lợi dụng nỗi đau khổ của người anh em bị tuyệt thông. Họ nghĩ rằng mình hiện hữu khi chống lại quyền bính. Thay vì hiện hữu và sáng tạo, họ lại chỉ chống đối và hủy diệt.

Ta thấy rõ trong hai trường hợp trên đây, cái đích thực sự mà hai loại người ấy nhắm tới không phải là ích lợi cho người có lỗi, nhưng là vết thương của riêng họ, mà họ không thể nào nhận ra được. Khi cản trở người anh em có lỗi ý thức về lỗi của người ấy, họ ngăn chặn người ấy thoát khỏi tình trạng bệnh hoạn. Trong khi ngược lại, vai trò của hình phạt là giúp người bị phạt nhận ra được trách nhiệm làm người của mình. Vì coi trọng người anh em ấy mà bề trên yêu cầu họ chịu phạt vì điều sai trái họ đã làm.

B – Ngày 3.7

Trong mọi đan viện đều luôn có những đan sĩ muốn làm người samaritanô tốt lành, họ cảm thấy không thể an lòng khi ai đó bị phạt, bị khai trừ hay cũng gọi là bị tuyệt thông. Mà thánh Biển Đức thì lại không nhân nhượng đối với những tâm hồn nhạy cảm ấy, vì ngài bắt họ phải chịu cùng một hình phạt như những người phạm lỗi. Vậy họ có tội gì?

Nếu hình phạt khai trừ hay tuyệt thông có mục đích đưa người anh em trở lại với nguồn mạch sâu xa của hữu thể họ, đưa họ đi vào trong chính bản thân mình để khám phá ra ở đó, từ trong nội tâm, con đường ngay chính, thì những ai muốn can thiệp để an ủi, nâng đỡ sẽ rất có thể cản trở người anh em đi vào nội tâm, vào nguồn mạch hiệp thông với cộng đoàn.

Thực vậy, khi thấy mình được hiểu, được nâng đỡ, người có lỗi sẽ dễ trở nên cố chấp, cố thủ trong ý riêng và không thoát ra được nữa. Thánh Biển Đức không cấm anh em thông cảm với người bị phạt. Vì ở một chương khác ngài nói đến việc gửi những vị từng trải đến nâng đỡ họ. Nhưng không phải ai cũng được ủy thác công việc ấy.

Quả thực, người từng trải, người có thể trợ giúp anh em mình, là một đan sĩ sáng suốt, có khả năng sống trong sự thật, sự thật về chính mình, về những yếu đuối của mình, sự thật về những yếu đuối của người khác. Một trong những dấu giúp nhận ra người từng trải đích thực đó là lòng khiêm tốn, tức là người ấy không quá tin vào sự sáng suốt của mình.

C – Ngày 2.11

Chương này có thể khiến ta khó chịu, vì đối với ta, tỏ tình liên đới với người anh em bị loại khỏi cộng đoàn là một việc bác ái tối thiểu. Nhưng thánh Biển Đức lại không nghĩ thế. Tại sao ngài tỏ ra cứng cỏi như vậy?

Người ta có thể nêu nhiều lý do. Có những lý do thuộc lãnh vực tâm lý, những lý do khác sâu xa hơn thuộc lãnh vực thiêng liêng. Những lý do tâm lý có thể diễn dịch như sau: Người bị tuyệt thông có thể nghĩ rằng việc người khác quan tâm đến mình là một cách cho thấy mình có lý. Thay vì giúp đỡ người ấy, điều đó có thể khiến họ lún sâu hơn vào lầm lạc. Rồi có những người sẵn sàng làm mọi cách để kéo chú ý, họ cần được người khác quan tâm. Nếu chiều theo mong muốn của họ, liệu ta có giúp gì được cho họ không?

Có thể còn những lý do tâm lý khác nữa, nhưng ở phía anh em muốn tỏ tình liên đới với người bị phạt. Thực sự anh em ấy muốn gì? Ta có thể bị cám dỗ muốn làm người samaritanô nhân hậu. Hoặc đôi khi ta muốn làm thế mong dễ dàng chiếm được tình cảm của người bị phạt, nhưng cái giá phải trả thì lại quá đắt.

Chắc chắn thánh Biển Đức đã hiểu tất cả những chuyện đó, nhưng thiết nghĩ còn một lý do sâu xa hơn khiến ngài đưa ra quyết định ở chương này. Đối với thánh nhân, sự hiệp thông huynh đệ, giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem, được xây dựng trên sự hiệp thông nơi Thiên Chúa. Đó là dự phần vào sự hiệp thông của Thánh Thần, đấng hiệp nhất Chúa Cha và Chúa Con với nhau.  Chính sự hiệp thông này phải đánh động tâm hồn người anh em bị phạt, giống như tình yêu thương giữa các kitô hữu tiên khởi đối với nhau đã đánh động đám đông những người ngoại giáo: “Xem kìa, họ yêu thương nhau biết chừng nào”.

Chương 27

VIỆN PHỤ PHẢI SĂN SÓC

ANH EM BỊ TUYỆT THÔNG ThẾ NÀO?

 Ngày 4.3 – 4.7 – 3.11  

1 Viện phụ phải hết lòng lo lắng săn sóc những anh em lầm lỗi. Thầy thuốc không cần cho người lành mạnh nhưng cho người ốm đau. 2 Vì thế, ngài phải dùng mọi phương cách như một lương y lành nghề, ngài nhờ những người thân cận, nghĩa là những vị lão thành khôn ngoan, 3 kín đáo an ủi người anh em đang chao đảo và khích lệ họ khiêm tốn đền tội, nâng đỡ họ cho khỏi quá buồn phiền, 4 như thánh Tông Đồ đã nói: “Với anh em ấy hãy bác ái gấp bội”, và mọi người phải cầu nguyện cho họ. 5 Viện phụ hãy tận lực săn sóc và đem hết tài trí khôn khéo lo lắng cho họ, để không một con chiên nào được ủy thác cho ngài bị hư mất. 6 Ngài phải biết ngài đã nhận trọng trách hướng dẫn các linh hồn yếu đuối, chứ không phải một bạo quyền trên các linh hồn lành mạnh. 7 Ngài hãy biết sợ lời Thiên Chúa răn đe qua miệng ngôn sứ: “Chiên nào xem ra béo tốt ngươi giữ lấy cho mình, còn con nào ốm yếu ngươi loại ra”. 8 Ngài hãy học gương hiền dịu của Ðấng Chăn Chiên nhân lành, bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm một con chiên lạc, 9 và thương xót nó yếu đuối, thậm chí không ngại vác nó trên vai thánh mình mà đưa về đàn chiên.

Chú giải:

A – Ngày 4.3

Một trong những khó khăn lớn nhất viện phụ gặp phải đó là thái độ của ngài, đối với những anh em bị phạt hay những anh em gặp khó khăn, không được hiểu cho đúng. Trước hết bởi cộng đoàn, rồi bởi người anh em gặp khó khăn và sau đó bởi chính viện phụ.

Trước tiên bởi cộng đoàn. Quả thực, ngay khi viện phụ phải quan tâm nhiều hơn tới một anh em nào thì luôn luôn có nguy cơ xẩy ra ghen tương, nghi ngờ viện phụ phân biệt đối xử. Vấn đề là viện phụ không thể nói rõ hết mọi chuyện, ngài phải tôn trọng chuyện riêng tư của người anh em. Phản ứng của những anh em khác là dấu hiệu cho thấy họ có trưởng thành hay không, có khả năng dẹp bỏ ý muốn được quan tâm hơn mọi người không.

Tiếp theo là bởi người anh em. Anh ta có thể nghĩ viện phụ quan tâm đến mình là vì mình có lý. Nhưng mà nâng đỡ người anh em gặp khó khăn không phải là xác nhận rằng anh ta đã làm đúng. Hoặc những anh em có vấn đề lợi dụng sự quan tâm của bề trên để khẳng định mình trước mặt người khác, để lôi kéo chú ý và tình cảm của họ. Đây là điều rất tinh tế nhưng cũng thường xẩy ra.

Khó khăn thứ ba đến từ chính viện phụ. Ngài có thể tưởng mình như vị cứu tinh. Thật là thích thú khi cảm thấy người khác cần đến mình. Ở một chương khác thánh Biển Đức nói tới điều này khi đề cập đến những anh em viện cớ bênh vực người nghèo mà cố gắng tự biện minh cho mình.

Tính ghen tương, ước muốn lôi kéo chú ý, ảo tưởng về mình như vị cứu tinh. Đấy là ba cái bẫy mà tất cả chúng ta đều có nguy cơ sa vào một lúc nào đó trong cuộc đời đan tu của mình. Thiết tưởng lòng thương cảm đích thực chỉ có được khi ta không còn ba tâm trạng trên đây nữa, đó chỉ là biểu hiệu của tính qui ngã tự nhiên nơi ta thôi. Sẽ có thương cảm khi con người dứt bỏ chính mình, như thánh Phanxicô Salêsiô đã nói.

B – Ngày 4.7

Có một luận lý của Phúc Âm không thể hiểu được đối với luận lý của con người: bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc; vác thập giá mình mà theo Chúa Giêsu; bỏ mất mạng sống mình để được sống. Tất cả những điều đó trí khôn con người không thể hiểu được. Cần phải có kinh nghiệm, một lần trong đời, để nhận ra rằng đúng thật là thế.

Thực vậy, một ngày nào đó, Thiên Chúa sẽ cho ta nhận ra được rằng luận lý của sự công hiệu, của cái hữu lý bị sụp đổ. Khi ấy, với rất nhiều nỗ lực, ta khám phá ra rằng chính khi bỏ mất mình mà ta gặp lại mình. Lúc ấy ta sẽ nhìn ra được mặt khác của các biến cố, mặt khác của các hữu thể.

Nhưng trong chương 27 này thánh Biển Đức còn đi xa hơn. Vì nếu điều đó đúng với mỗi cá nhân thì ngài quả quyết là cũng đúng cho cộng đoàn nữa. Một cộng đoàn muốn làm chủ tương lai của mình, muốn đóng vai người cha gia đình để bảo đảm cho những ngày tàn của mình, sẽ không có tương lai.

Và viện phụ có trách nhiệm giữ cho cộng đoàn có tinh thần rộng mở. Ngài phải dám ra đi để tìm con chiên lạc, ngay cả khi điều đó không được ai hiểu cho. Ngài phải dám không để mình bị giam hãm trong cái luận lý hữu lý nhỏ nhặt của điều đã có sẵn. Muốn cởi mở được như vậy cần phải có đức tin sâu xa. Nhưng ai có thể nghĩ rằng mình sẽ làm được điều đó?

C – Ngày 3.11

Với thánh Biển Đức, sai lỗi là triệu chứng của căn bệnh tâm hồn. Nhưng trong khi ta quen nhận ra những căn bệnh thể lý hoặc ngay cả tâm lý, thì trái lại ta khó mà chẩn đoán được những thứ bệnh thiêng liêng mình mắc phải. Đôi khi ta nhận ra được nơi anh em, còn nơi mình thì rất hiếm. Chẩn đoán là giai đoạn đầu tiên, nhưng một giai đoạn chẳng dễ dàng.

Rồi đến giai đoạn thứ hai, đó là chữa trị. Thánh Biển Đức kể ra hai cách chữa trị. Cách thứ nhất là chữa trị gián tiếp: Viện phụ sai những người khôn ngoan từng trải đến dùng lời khuyên và tình thân hữu để khích lệ người anh em hối cải. Cách chữa trị thứ hai: viện phụ phải đích thân hành động, giống như vị Mục Tử nhân hậu, không quản ngại vất vả đi tìm con chiên lạc đàn.

Hai cách chữa trị này có nhiều điểm giống nhau: -không đợi bệnh nhân ý thức về căn bệnh đang làm họ hao mòn, nhưng đi đến với họ; -đến với họ theo đường của họ, chứ không đòi họ phải theo đường của mình, và nếu cần thì vác lấy cái họ không vác được.

Viện phụ nào dám nghĩ rằng mình làm được như thế? Vừa chẩn đoán đúng vừa chữa trị giỏi, nhưng cũng dám đi vào những con đường chưa bao giờ đi để tìm người anh em? Cộng đoàn nào sẽ chấp nhận để viện phụ bỏ nhà ra đi tìm con chiên lạc?

Chương 28

NHỮNG NGƯỜI ĐÃ BỊ SỬA PHẠT NHIỀU LẦN

MÀ KHÔNG TU CHỈNH

Ngày 5.3 – 5.7 – 4.11    

1 Anh em nào đã bị sửa phạt nhiều lần vì một lỗi nào đó, cả đến hình phạt tuyệt thông, mà vẫn không chịu tu chỉnh thì phải chịu phạt thẳng ngặt hơn, nghĩa là đánh đòn. 2 Bị sửa phạt như thế mà vẫn cố chắp, lại còn nổi kiêu muốn bênh vực lỗi mình – mong đừng xảy ra như thế – thì viện phụ hãy xử sự như lương y cao tay. 3 Nếu đã dùng lời khuyên bảo như thuốc đắp thuốc xoa, lời lẽ Thánh Kinh như thuốc uống, và cuối cùng hình phạt tuyệt thông hoặc đánh đòn như hỏa cứu, 4 mà vẫn thấy vô hiệu, thì ngài hãy dùng tới thứ linh dược này là lời cầu nguyện của ngài và của toàn thể anh em, 5 để Chúa là Đấng toàn năng cứu chữa người anh em ốm liệt đó. 6 Nếu như vậy vẫn không chữa khỏi, lúc ấy viện phụ hãy dùng lưỡi dao sắc bén như lời thánh Tông Đồ dạy: “Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh em”. 7 Lại rằng: “Người bất trung có muốn đi thì cứ đi”, 8 kẻo một con chiên bệnh làm lây nhiễm cả đàn.

Chú giải:

A – Ngày 5.3

Trong chương này, thánh Biển Đức nói rõ rằng ta đứng trước hai thứ luận lý: một là luận ly của anh em, hai là luận lý của viện phụ và cộng đoàn. Ta có thể coi đó như cuộc chiến của Đavít chống lại Gôliát, và có thể đứng về phía người được coi như yếu hơn, như nạn nhân, như kẻ nghèo. Vì thế, điều quan trọng là phải hiểu cái được cái thua của cuộc chiến để khỏi bị sa bẫy.

Một anh em phạm lỗi nhưng không chịu sửa mình. Thánh Biển Đức xác định ngay vấn đề: đó là vấn đề ý riêng, hay đúng hơn, đó là vấn đề sự thật của con người. Thực vậy, ý riêng ràng buộc ta vào cái bề mặt của bản thân mình, trong việc biểu lộ tình cảm và trong những lời tự biện bạch, đôi khi rất tinh vi. Ta thấy có những lý do chính đáng để làm như vậy. Ý riêng cản trở ta đạt tới cõi thâm sâu của hữu thể mình.

Cuộc chiến đích thực trước hết là ở nơi chính người anh em. Tất cả khoa sư phạm mà thánh Biển Đức sẽ áp dụng hệ tại việc mở ra cho người anh em này con đường tự do chân chính, giải thoát cho tự do của họ đang bị giam hãm trong ý riêng.

Vì thế, các phương dược ngài đề nghị có thể làm ta ngạc nhiên: khích lệ, Kinh Thánh, tuyệt thông, đánh đòn và sau cùng là cầu nguyện. Nếu chỉ là vấn đề kỷ luật, ta sẽ khởi sự thuyết phục rồi sau đó mới dùng tới hình phạt. Nếu thánh Biển Đức bảo dùng lời Kinh Thánh và cầu nguyện, điều ấy cho thấy rằng ngài nhắm tới một cái gì khác và đặt cuộc chiến vào một nơi khác.

Đó là, xét cho cùng, chỉ Thiên Chúa mới đánh động được lòng người. Có thể đây là một trong những kinh nghiệm đau đớn nhất, nhưng cũng có sức giải thoát hơn cả đối với một viện phụ: hiểu được rằng ngài không thể đánh động lòng người. Chỉ mình Thiên Chúa mới biết cách đảo ngược một tình thế xem ra đã tuyệt vọng, giải thoát người anh em khỏi sự mù quáng, khỏi ngục tù của ý riêng.

B – Ngày 5.7

Điều thánh Biển Đức lên án không phải là lỗi lầm hay sự yếu đuối nhưng là việc chữa mình. Ai cứ cố tình lỗi phạm mà lại còn chữa mình thì sẽ làm cho những phương dược thánh Biển Đức sử dụng, cả đến lời cầu nguyện, mất hết hiệu lực. Sự chai đá cứng lòng là một trong những mầu nhiệm lạ thường và khó hiểu nhất mà ta có thể gặp.

Đề tài về sự cứng lòng, sự dầm mình trong cái ác, việc từ chối hoán cải ta thấy đầy dẫy qua suốt dòng lịch sử thánh. Ta đã biết trường hợp của vua Pharaô, trường hợp của dân Israel, trường hợp các thủ lãnh trong dân trước đấng họ kết án tử hình và đóng đanh vào thập giá.

Phúc Âm thuật lại một trường hợp tầm thường hơn. Khi trở lại quê hương, Chúa Giêsu gặp phải sự cứng tin nơi những kẻ tưởng đã biết ngài. Và Phúc Âm kết luận bằng một câu đáng sợ: “Ở đó, ngài không thể làm được phép lạ nào”.

Sự cứng lòng đó cũng có thể ảnh hưởng đến ta trong đời sống huynh đệ. Không những chỉ có những anh em mà ta không dám tin, nhưng ta cũng có thể nghi ngờ chính mình nữa. Tất cả đều do một nguồn gốc, đó là sự thiếu lòng tin. Vì chỉ lòng tin mới cứu được thế giới.

C – Ngày 4.11

Nhiều lần trong chương 28 này thánh Biển Đức lại sử dụng ngữ vựng y khoa để nói về những phương thế phải dùng: lời khuyên bảo như thuốc đắp thuốc xoa, lời lẽ Thánh Kinh như thuốc uống, hình phạt tuyệt thông hoặc đánh đòn như hỏa cứu. Và nếu như thế mà không có kết quả, thì viện phụ hãy dùng tới phương thế hiệu nghiệm hơn, đó là lời cầu nguyện của ngài và anh em. Hai điều cốt yếu: lời cầu nguyện và sự hiệp nhất giữa những người cầu nguyện tức là viện phụ và cộng đoàn.

Khi viện phụ đã dùng mọi phương thế quen dùng, pha lẫn sự dịu dàng, cảm thông với sự cứng rắn mà người anh em vẫn không lay chuyển thì chỉ còn một cách là cầu nguyện. Đây xem ra là điều cốt yếu trong cuộc sống của viện phụ cũng như của mọi đan sĩ trước mọi tình huống. Quả thực, khi đã dùng mọi phương thế ấy và không còn làm gì hơn được, ta dễ bị cám dỗ bỏ cuộc. Đưa việc cầu nguyện vào trung tâm tiến trình chữa trị, thánh Biển Đức không chỉ muốn nhấn mạnh tới hiệu quả của lời cầu nguyện. Ngài cũng muốn nhắc nhở rằng đan viện có là vì Chúa. Chính Chúa mời gọi ta đến đây, chính ngài bảo trì cộng đoàn, và chỉ mình ngài mới chữa trị được người anh em đã từ chối hiệp thông với cộng đoàn và khơi lại ngọn lửa nhiệt thành trong lòng anh.

Thánh Biển Đức kêu gọi không chỉ riêng viện phụ mà cả cộng đoàn cùng cầu nguyện. Vì một anh em từ chối sửa mình làm tổn thương mọi anh em khác. Thực vậy, khi tuyên khấn trong đan viện ta hiến dâng mình cho Chúa, nhưng cũng hiến thân cho nhau. Mỗi anh em đều dự phần vào kho tàng ân sủng mà Thiên Chúa ban phát vì lợi ích của tất cả mọi anh em. Mọi người cùng cầu nguyện có nghĩa là mọi người đều ý thức về trách nhiệm của mình đối với mỗi anh em trong cộng đoàn. Chúa đã trao phó chúng ta cho nhau. Ngài đã làm cho chúng ta thành anh em với nhau, thành những chi thể trong cùng một thân thể. Tất cả chúng ta đều có nghĩa vụ cầu nguyện cho anh em mình, nhất là những anh em gặp đau khổ.

Chương 29

CÓ NÊN NHẬN LẠI NHỮNG ANH EM

ĐÃ RA KHỎI ĐAN VIỆN KHÔNG?

Ngày 6.3 – 6.7 – 5.11   

1 Anh em nào đã vì nết xấu của mình mà bỏ đan viện, nếu muốn trở về, trước hết phải cam kết sửa lại thói hư đã làm cớ cho mình ra khỏi đan viện. 2 Lúc đó sẽ được nhận vào chỗ cuối cùng, để thử lòng khiêm tốn. 3 Nếu lại bỏ ra đi, sẽ còn được tái nhận tới lần thứ ba, nhưng tự hậu người anh em đó phải biết sẽ không còn đường trở về nữa.

Chú giải:

A – Ngày 6.3

Sau khi nói về hình phạt tuyệt thông, thánh Biển Đức quan tâm tới những anh em đã tự ý rời bỏ đan viện. Ngài lưu ý là do lỗi của họ mà họ đã ra đi, và nhất thiết họ phải sửa chữa lầm lỗi đó để trở về.

Thánh Biển Đức dự liệu cả một tiến trình cho việc trở về đó: -người anh em sẽ được nhận vào chỗ cuối hết để thử lòng khiêm tốn của họ; -nếu bỏ đi nữa, họ có thể được nhận lại tới lần thứ ba.

Quả thực, đối thánh Biển Đức, bí quyết giúp cho trở về với đan viện là lòng khiêm tốn. Ở đây, khiêm tốn hệ tại nhận ra trách nhiệm của mình về điều mình đã gây nên, và chấp nhận sự kiện mọi người đều thấy mình có lỗi.

Quả thực, nếu ta có thể nhận lỗi cách tương đối dễ dàng, thì vẫn luôn luôn khó khăn khi phải chấp nhận cho người khác phơi bày lỗi của ta ra. Vậy mà thánh Biển Đức lại làm thế. Vì lý do gì? Phải chăng lại không có tính sư phạm hơn nếu bỏ qua lỗi lầm và bắt đầu lại như thể không có gì xẩy ra sao?

Quả thực, thánh Biển Đức không tìm cách đè bẹp người anh em, giam hãm họ trong lầm lỗi của họ. Mà trái lại, khi bắt người anh em nhận thức rõ điều lỗi và khi đón nhận họ, ngài giúp họ tiến lên cách dứt khoát và vững vàng trong đời sống thiêng liêng. Bước tiến này hệ tại nhận ra lầm lỗi của mình vì ý thức rằng mình còn lớn hơn cả lỗi lầm đó, rằng lỗi đó không nói lên được bản chất của ta, không cấu tạo nên ta.

B – Ngày 6.7

Sai lầm thuộc về bản chất con người, và sai lầm có thể trở thành cơ hội để hoán cải, để thay lòng đổi dạ, nếu con người biết nhận ra sai lầm và biết thú nhận mình sai lầm.

Ta thường không nhận ra được mình sai lầm, không chịu cho rằng mình đã sai đường lạc lối. Khi ấy ta tìm đủ mọi cách để chữa mình và đổ tội cho người khác, cho hoàn cảnh, cho cộng đoàn, cho đời sống đan tu, cho Giáo Hội. Thế là xong!

Bởi vậy chương 29 này rất hay, vì nơi đây thánh Biển Đức khai triển con đường hoán cải đích thực: đó là nhận biết mình có lỗi, hứa tu sửa, đứng vào chỗ cuối cùng. Và đứng vào chỗ cuối cùng có nghĩa là coi người khác hơn mình, như thánh Phaolô nói.

Một cách nào đó, mọi đan sĩ đều có ngày phải trải qua thử thách này. Vì đây là giai đoạn cốt yếu trong mọi cuộc sống thiêng liêng đích thực. Đó là lúc ta nhận ra được mình mù quáng về mình tới mức nào, và cả về người khác nữa, là lúc ta có thể đứng vào chỗ của mình, chỗ cuối hết, gần ngay bên Chúa Giêsu.

C – Ngày 5.11

Với thánh Biển Đức, việc một đan sĩ bỏ đan viện là điều dễ hiểu. Thực vậy, trong chương 29 này, ngài dự liệu rằng một anh em có thể được nhận lại tới lần thứ ba. Điều đáng ngạc nhiên không phải là chuyện ra đi hay thất bại, vì tất cả chúng ta đều bị nết xấu và tính kiêu căng quấy nhiễu. Điều đáng ngạc nhiên chính là sự trung tín.

Không coi sự trung tín như điều hiển nhiên, ở đây thánh Biển Đức nêu lên tính cách kỳ diệu của nhân đức này. Lòng trung tín là một hồng ân Chúa ban, là dấu hiệu cho thấy một cuộc đời được ân sủng tác động và nhào nặn.

Trước hết, ta thấy ơn trung tín hoạt động nơi các vị cao niên. Các ngài là dấu hiệu sống về hoạt động của ân sủng trong cộng đoàn chúng ta. Và phải chăng đó lại không là lý do khiến các đan sĩ để nghĩa trang ngay trong khuôn viên đan viện? Làm như vậy phải chăng là để nêu cao lòng trung tín với Chúa?

Thánh Kinh chính là cuốn sách kể lại sự trung tín của Thiên Chúa qua mọi thăng trầm và thử thách của cuộc sống con người. Một sự trung tín kỳ diệu, đôi khi không thể nào hiểu được. Thiên Chúa gắn bó với ta, bất chấp tất cả, bất chấp tội lỗi của ta. Ngài không bao giờ bỏ rơi ta. Một cách nào đó, sự trung tín của các vị cao niên là dấu hiệu hữu hình về sự trung tín của Thiên Chúa.

Chương 30

PHẢI SỬA PHẠT CÁC TRẺ EM THẾ NÀO?

Ngày 7.3 – 7.7 – 6.11  

1 Mỗi tuổi, mỗi trình độ hiểu biết, cần được cư xử theo những mức độ riêng. 2 Vì thế, thiếu niên hay các trẻ em nhỏ tuổi hơn, hoặc kém tầm hiểu biết, chưa có khả năng nhận định sự nặng nề của hình phạt tuyệt thông, 3 nếu phạm lỗi phải bắt giữ chay thật ngặt, hoặc đánh đòn cho đau để chúng sửa mình.

Chú giải:

A – Ngày 7.3

Phần hình sự của tu luật, như quen gọi, kết thúc với chương 30. Ta đã thấy rằng việc sửa dậy người anh em có lỗi đặt cơ sở trên hai nền tảng.

Nền tảng thứ nhất là ta được kêu mời bởi một ơn gọi, bởi ơn thánh, và tôi dám nói bởi bản tính con người chúng ta nữa, để lớn lên. Đó là nguồn mạch của mọi quyền bính mà theo từ nguyên thì có nhiệm vụ làm cho lớn lên. Và đó cũng là nguồn mạch lời khấn hoán cải, đòi hỏi ta phải chấp nhận luôn luôn tiến lên, chứ không được yên phận trong hiện trạng của mình. Nền tảng thứ nhất này chính là niềm hy vọng.

Nền tảng thứ hai là để sống ơn gọi này, ta cần được khích lệ, được động viên và đôi khi được thúc đẩy bởi người khác. Đó là ý nghĩa lời khấn vâng phục: không được người khác hỗ trợ, ta không tiến lên được, ta cứ tiếp tục bơi mà chẳng đi xa hơn. Điều ấy đòi ta phải nhận ra rằng ta cần được trợ giúp, rằng ta không thể tự xoay xở, vì lẽ ta mù tịt về mình, và do đó ta không thẩm định chính xác được đâu là những phương tiện thích hợp nhất cho mình.

Biết mình được mời gọi nên tốt hơn và biết mình mù quáng không thể tự tìm ra đường đi, đó là hai đặc trưng cốt yếu của đức khiêm nhường kitô giáo. Quả thật, nhân đức này không là gì khác hơn là ý thức về sự cao cả, về giá trị vô cùng của ta (vì Chúa Kitô đã chết cho tôi) và cũng ý thức những giới hạn của ta (ta bị mù quáng vì tội lỗi).

Bởi thế, trong chương 30 này, thánh Biển Đức lưu ý rằng nếu phương tiện có thể thay đổi, vì lý do tuổi tác, thì mục đích vẫn chỉ là một. Thực vậy, phương tiện không nhằm gì khác hơn là giúp người anh em ý thức được điều mà thánh Bênađô nói cách rất đơn giản: “Tại sao tôi đến đây?”

B – Ngày 7.7

“Mỗi tuổi, mỗi trình độ hiểu biết cần được cư xử theo một mức độ riêng”. Nguyên tắc chung ấy, như thánh Biển Đức nói ở câu 1 chương 30 này, sau đó được áp dụng vào trường hợp cụ thể của các trẻ em. Nếu ngày nay không còn có trẻ em trong đan viện nữa, nguyên tắc ấy vẫn tiếp tục được áp dụng. Thánh Biển Đức đưa ra cho viện phụ và các vị hữu trách trong cộng đoàn những tiêu chuẩn để giúp các ngài hành xử.

Tuy vậy, nguyên tắc chung trên đây như có điều gì khiến ta ngạc nhiên. Đó là thánh Biển Đức phân biệt tuổi tác với trình độ hiểu biết. Có nghĩa là đối với ngài tuổi tác không luôn luôn đồng nghĩa với sự khôn ngoan. Ngài còn nhắc lại điều đó trong những đoạn khác của tu luật, đặc biệt ở chương 3 khi ngài trưng dẫn lời Thánh Kinh trong sách Estê. Như vậy, tuổi tác và trình độ hiểu biết không luôn luôn đi đôi với nhau. Nhưng tại sao?

Tại sao một số người xem ra như chẳng bao giờ học hỏi được gì? Họ luôn luôn gặp phải những khó khăn như nhau? Tại sao họ cứ giống như những con ruồi không ngừng đâm đầu vào cửa kính? Đó là điều hết sức bí nhiệm và đau đớn cho viện phụ hay cho cha thiêng liêng, khi giáp mặt với một con người mù quáng đến như vậy. Tại sao?

Có thể một ngày nào đó mỗi người trong chúng ta đều sẽ thấy mình trong tình trạng này, giống như con bươm bướm bị lóa mắt vì bóng đèn nó bay lượn chung quanh. Ta không thấy, không hiểu gì. Nhưng chính lúc đó lại là lúc quan trọng nhất trong đời, lúc ta cảm nghiệm mình được cứu thoát bởi một người khác, mà gần như ta chẳng muốn. Điều đó luôn luôn xẩy ra trong tăm tối, không hiểu gì, và cả trong đau khổ nữa. Thật phúc cho ta nếu khi ấy ta gặp được người nào dám nhắc nhở ta, dám phản đối ta và dẫn ta tới nơi mà ta không thể đi một mình vì không biết đường.

C – Ngày 6.11

Lời thánh Biển Đức xác định: “Mỗi tuổi, mỗi trình độ hiểu biết”, có vẻ dư thừa, và chỉ nhấn mạnh tới một điều đã hiển nhiên. Phải chăng đúng như vậy? Phải chăng càng lớn lên sự hiểu biết của ta càng sáng suốt và tinh tế hơn? Phải chăng kinh nghiệm sẽ giúp ta tiến bộ hơn? Và tuổi tác có phải là dấu hiệu cho sự khôn ngoan không?

Chỉ cần nhìn chung quanh ta và ngay bản thân ta thì sẽ thấy không tất nhiên là như thế. Trái lại, với thời gian, một số người trong chúng ta trở nên vô cảm trước mọi lý luận, như thể họ dần dần náu mình trong cái thế giới nhỏ bé của họ, bị chi phối bởi những tình cảm, những lợi ích cá nhân. Rượu ngon lại trở thành dấm.

Tuổi đời và sự khôn ngoan không nhất thiết cùng tăng trưởng như nhau. Sách Daniel nêu cho ta một thí dụ rất đáng ngạc nhiên trong câu chuyện bà Suzanna phải đương đầu với hai ông già đồi bại. Và chắc cũng chẳng cần tự hỏi liệu ta có tiến tới trong ơn gọi đan tu cùng với tuổi đời không!

Đôi khi có anh em nói rằng anh nọ anh kia khó mà được khấn nếu bỏ phiếu cho anh ta lúc này. Thường ta hay nhận xét về người khác. Còn mình thì sao? Mỗi khi trở nên chua cay và yêu sách đối anh em thì có lẽ tốt hơn ta nên tự hỏi mình: còn tôi thì thế nào?

Chương 31

NGƯỜI QUẢN LÝ ĐAN VIỆN PHẢI THẾ NÀO?

 Ngày 8.3 – 8.7 – 7.11  

1 Hãy chọn quản lý cho đan viện người nào trong cộng đoàn tỏ ra khôn ngoan, có tư cách chín chắn, tiết độ, không mê ăn, không kiêu căng, không hiếu động, không hay la mắng, không chậm chạp, không hoang phí; 2 trái lại, có lòng kính sợ Chúa và biết xử sự như người cha của cộng đoàn. 3 Quản lý phải biết chăm lo hết mọi việc, 4 không làm gì ngoài lệnh viện phụ. 5 Hãy tuân giữ những gì đã được chỉ thị, 6 đừng làm anh em buồn. 7 Khi có ai đến xin điều gì không hợp lý, không nên tỏ vẻ khinh bỉ làm phiền lòng anh em, nhưng hãy khéo léo khước từ cách khiêm tốn lời xin vô lý. 8 Quản lý phải biết lo cho linh hồn mình, hãy nhớ lời thánh Tông Đồ: “Ai phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng”. 9 Hãy hết dạ săn sóc bệnh nhân, trẻ em, khách và người nghèo. Ngài nên biết rằng tới ngày phán xét, ngài sẽ phải tường trình về những người ấy. 10 Ngài hãy coi tất cả những dụng cụ và của cải đan viện như bình thánh trên bàn thờ, 11 chớ coi thường vật nào. 12 Đừng hà tiện, đừng hoang phí, đừng phá tán tài sản đan viện, mọi sự phải có mực thước và theo lệnh viện phụ.

Chú giải:

A – Ngày 8.3

Thánh Biển Đức đặt quản lý ở giữa ba mối tương quan. Tương quan với Thiên Chúa, với anh em, với viện phụ.

Về tương quan với viện phụ, thánh Biển Đức chỉ nói đến trong hai câu 4 và 12: “không làm gì ngoài lệnh viện phụ”. Với Chúa cũng hai lần, ở câu 2: “phải có lòng kính sợ Chúa”, và ở câu 9: “tới ngày phán xét, quản lý sẽ phải tường trình về những người ấy”.

Phần lớn chương này nói về tương quan giữa quản lý với anh em. Thánh Biển Đức cho thấy sự cặn kẽ trong thái độ của ngài đối với con người và của cải được dùng để phục vụ con người. Trung tâm điểm của sứ vụ quản lý là lưu ý tới con người, đặc biệt người nghèo và bệnh nhân.

Ở câu 12, thánh Biển Đức nêu lên khó khăn cốt yếu trong nhiệm vụ quản lý: đó là quá nhiều hoặc quá ít. Nếu quản lý quá chú trọng đến sự vật mà gây thiệt hại cho con người, đó là do tính hà tiện với những hậu quả kèm theo, như phàn nàn kêu ca, chua cay bẳn gắt. Nếu lại phân phát của cải quá rộng rãi để mong được mộ mến thì một ngày nào đó sẽ gây họa cho cộng đoàn. Vậy vấn đề quan trọng là phải có chừng mực.

Nhưng phải làm sao để có chừng mực? Ta có thể hành động vì ý ngay và rất có lương tâm, nhưng lại thiếu chừng mực. Điều ấy là do sự bất toàn của con người chúng ta. Chính vì vậy thánh Biển Đức nêu lên hai tiêu chuẩn để giúp quản lý biết mình có xử sự đúng mức hay không, tức là lệnh của viện phụ (c.4;12) và lòng yêu thương những người bé mọn, quan tâm lo lắng cho người nghèo, cho những người yếu đuối nhất trong cộng đoàn (c.7;9). Đó chính là chiếc la bàn chỉ đường cho quản lý đi theo.

B – Ngày 8.7

Bình an của cộng đoàn tùy thuộc phần lớn vào việc tổ chức đời sống vật chất trong đan viện và vào những ai có nhiệm vụ về việc đó. Tất nhiên sẽ có những anh em không hài lòng vì thấy người ta làm quá nhiều hay quá ít, nhưng như thế không có nghĩa là phải coi thường những chuyện vật chất.

Trong đời sống đan tu không có tách biệt giữa lãnh vực vật chất và lãnh vực thiêng liêng. Làm đan sĩ tức là hướng tới sự thống nhất bản thân, là tạo lập mối liên kết giữa mọi phương diện trong cuộc sống. Đó là điều thánh Biển Đức nói tới ở câu 10, khi ngài nhắc nhở quản lý phải coi các dụng cụ và của cải đan viện như bình thánh trên bàn thờ.

Sự so sánh này cho ta hiểu được thái độ của thánh Biển Đức đối với các vật được tạo thành. Tất cả mọi đồ vật, mọi của cải ta sử dụng đều có thể giúp ta nhận ra được sự hiện diện của Chúa Kitô. Khắp nơi, ngay cả nơi những vật tầm thường nhất, như cái cuốc cái chổi, Thiên Chúa vẫn có thể dành cho ta cơ hội gặp gỡ ngài.

Tôn trọng đồ vật như thế không phải là bảo thủ quá mức, nhưng là để tìm lại mối tương quan chính đáng với thế giới như bàn thờ, như đĩa thánh trên đó có đặt Mình Thánh Chúa Kitô. Điều làm cho việc tôn trọng này có giá trị đó là những đồ vật ấy dẫn ta đến một Đấng Khác. Không có chúng, có lẽ ta không thể phụng sự ngài. Vấn đề không phải là dính bén với đồ vật, nhưng là để chúng dẫn ta tới Đấng đã ban chúng cho ta.

C – Ngày 7.11

Mở đầu chương 31 này, thánh Biển Đức liệt kê một loạt những đức tính và cách ứng xử người quản lý đan viện phải có. Tuy nhiên, nếu phải có những đức tính cần thiết để làm quản lý, thiết tưởng cũng phải có một số khuyết điểm nào đó.

Điều ấy không chỉ đúng cho quản lý mà còn cho tất cả các nhiệm vụ trong đan viện. Thiết tưởng phải phân biệt những khả năng (tích cực và tiêu cực) cần thiết cho một nhiệm vụ có tính cách đan tu của một anh em. Ta thường nhận thấy những anh em thánh thiện nhất lại không thể đảm nhiệm một chức vụ nào đó, chỉ vì họ quá thánh thiện.

Nếu mọi đan sĩ đều giữ thinh lặng cách hoàn hảo, chìm sâu trong việc chiêm ngưỡng Chúa, tách biệt khỏi của cải đời này và rất mực khiêm tốn tới độ luôn luôn tìm chỗ cuối, thì ta sẽ kiếm đâu ra những anh em giữ nhà khách nói nhiều ở mức vừa đủ, những anh em làm bếp hơi tham ăn một chút, những anh quản lý dồi dào óc thực tiễn, những viện phụ phải giảng dậy và điều hành đan viện? Nếu tất cả chúng ta đều là những đan sĩ hoàn hảo, thì thật là phiền!

Vì thế, ta phải thay đổi cách nhìn để khám phá ra bộ mặt mới của sự thánh thiện. Đó là sự thánh thiện của những con người biết dấn thân vào cuộc sống thực tế, dù có thể có những thiếu sót hay lỗi lầm. Một sự thánh thiện ở đời, với hai chân đứng trên mặt đất.

Ngày 9.3 – 9.7 – 8.11     

13 Trước hết ngài phải có lòng khiêm tốn, gặp ai xin điều gì không sẵn, hãy biết trả lời nhã nhặn, 14 như đã viết: “Một lời tốt lành hơn quà tặng quý giá”. 15 Điều viện phụ ủy thác, ngài hãy chăm lo, điều viện phụ cấm, ngài chớ làm. 16 Hãy phân phát khẩu phần thường lệ cho anh em, đừng hách dịch, cũng đừng chậm trễ kẻo làm anh em vấp phạm, hãy nhớ lời Chúa cảnh cáo kẻ làm dịp tội cho một trẻ nhỏ. 17 Nếu cộng đoàn đông, hãy cho người phụ giúp, như thế ngài sẽ bình an chu toàn phận sự được ủy thác. 18 Phát cũng như xin phải có giờ nhất định, 19 để không ai phải phiền hà hay buồn chán trong nhà Chúa.

Chú giải:

A – Ngày 9.3

Ở câu 13, thánh Biển Đức bảo: “Trước hết ngài phải có lòng khiêm tốn”. Với thánh Biển Đức, khiêm tốn là đức tính cốt yếu của quản lý, cũng như của tất cả những anh em giữ một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn. Nhưng khiêm tốn hệ tại điều gì? Trong những câu tiếp theo thánh Biển Đức giải đáp thắc mắc này, và ta có thể thu tóm lại thành ba đặc điểm.

Đặc điểm thứ nhất của khiêm tốn là sự thân ái (c.13-14), không tự phụ (c.16). Ngay cả khi không có gì để cho, khi anh em xin điều không hợp lý, quản lý vẫn phải tỏ ra thân ái với anh em. Đặc điểm thứ hai (c.15) là biết giới hạn của mình: đáp ứng tốt điều anh em xin, nhưng không quá giới hạn mình được phép làm. Đặc điểm thứ ba là tôn trọng quyền lợi của anh em. Với thánh Biển Đức, mọi nhiệm vụ, mọi quyền bính đều là để phục vụ người nghèo, người bé mọn, người phải đi xin.

Đó là khuôn mặt mang tính Phúc Âm của mọi chức vụ trong cộng đoàn. Dù có nhiệm vụ gì, ta vẫn có thể tự hỏi mình có tuân giữ ba nguyên tắc cơ bản của mọi công việc phục vụ trong cộng đoàn là lòng nhân ái, sự tôn trọng người khác và theo đúng thẩm quyền được ủy thác không.

Vấn đề là ta dễ nhìn thấy khuyết điểm của anh em, còn khuyết điểm của mình thì lại làm lơ. Có một cách rất đơn giản giúp ta biết được sự thật, đó là coi xem anh em có vui vẻ đến với ta không hay tỏ dấu cực chẳng đã mà phải đến vì không làm cách khác được.

B – Ngày 9.7

Trong  đan viện có cả một nghệ thuật quản lý các đồ vật. Ở phần hai của chương 31 này thánh Biển Đức nêu lên những điểm cốt yếu của nghệ thuật đó. Đây là nghệ thuật dành cho tất cả những ai có bổn phận quản lý tài sản đan viện cách này hay cách khác.

Thiết tưởng có ba từ diễn tả ba đức tính đặc trưng mà thánh Biển Đức muốn thấy nơi người quản lý và những ai có trách nhiệm về tài sản đan viện, đó là khiêm tốn, nhã nhặn, vâng phục. Khiêm tốn để nhận ra vị trí của mình, để thi hành bổn phận như một việc phục vụ chứ không phải như thi hành một quyền bính. Nhã nhặn để tạo bầu khí huynh đệ, giúp ta biết từ chối điều ta không thể cho mà không làm người khác bị tổn thương. Sau cùng, vâng phục để ý thức rằng mọi công tác nhằm phục vụ lợi ích chung đều lệ thuộc vào quyền bề trên.

Ta có thể ngạc nhiên khi không thấy thánh Biển Đức nhắc tới sự khôn ngoan khéo léo. Tuy rằng đó cũng là đức tính mà người quản lý hay những vị hữu trách về vật chất trong đan viện cần có. Khi đói thì một đĩa khoai chiên vẫn cần hơn một nụ cười!

Tôi nghĩ rằng sự khôn ngoan khéo léo đã hàm ẩn trong cả ba đức tính nói trên. Thực vậy, phải khiêm tốn, nghĩa là phải ý thức về mức độ lệ thuộc của con người vào thực tại trần thế để biết lo toan những nhu cầu vật chất hằng ngày cho anh em. Phải nhã nhặn để biết cho và nhận đúng giờ đúng lúc, theo mức độ thích hợp. Sau cùng phải vâng phục để biết phục vụ hết khả năng, không quá bận tâm đến tiện nghi và nhu cầu riêng của mình.

C – Ngày 8.11

Thánh Biển Đức đưa ra cho quản lý hai qui luật căn bản. Hai qui luật hướng dẫn cách ứng xử của quản lý, nhưng lại chẳng liên quan gì tới điều ta gọi là việc quản lý tốt. Hai qui luật này nói tới những mối tương quan. Qui luật thứ nhất nói về tương quan với anh em, qui luật thứ hai nói về tương quan với viện phụ.

Trong chương 31 này, thánh Biển Đức đề cập nhiều tới thái độ của quản lý đối với anh em. Quản lý không được kiêu căng, không la mắng, phải xử sự như người cha, không làm anh em buồn, không tỏ vẻ khinh bỉ, biết từ chối cách khiêm tốn, hết dạ săn sóc anh em bệnh tật, trả lời nhã nhặn, không hách dịch, không chậm trễ, không làm anh em vấp phạm.

Thánh Biển Đức cũng nhấn mạnh tới tương quan với viện phụ. Quản lý không làm gì ngoài lệnh viện phụ, phải có chừng mực và theo như viện phụ truyền, điều viện phụ ủy thác ngài hãy chăm lo, điều viện phụ cấm ngài chớ làm.

Như thế, thánh Biển Đức ấn định khuôn mẫu cho mọi trách nhiệm trong đan viện. Ai đã nhận nhiệm vụ nào thì hãy thi hành: -để phục vụ anh em, tất cả mọi anh em; -trong quyền hạn mà viện phụ đã qui định; -theo khả năng Chúa ban. Khả năng chuyên môn chỉ đứng ở hàng thứ ba. Thực vậy, việc quản lý giỏi đâu ích lợi gì nếu lại gây bất an và oán hận trong cộng đoàn. Điều này nhắc nhở ta điểm cốt lõi trong học thuyết xã hội của Giáo Hội: của cải vật chất để phục vụ con người, chứ không ngược lại.

Chương 32

DỤNG CỤ VÀ TÀI SẢN ĐAN VIỆN

 Ngày 10.3 – 10.7 – 9.11    

1 Tài sản đan viện gồm có dụng cụ, áo quần và các vật khác. Viện phụ hãy để ý xem anh em nào mà đời sống và tư cách có thể làm cho ngài an tâm, 2 và trao phó cho mỗi người một thứ để họ giữ gìn và thu cất. 3 Viện phụ sẽ giữ một bản thống kê các đồ ấy để khi thay đổi công tác cho anh em, ngài có thể biết ngài đã trao gì, nhận gì. 4 Nếu ai trông nom tài sản đan viện cách cẩu thả hay lười biếng, thì phải cảnh cáo; 5 nếu không sửa mình, hãy phạt theo luật.

Chú giải:

A – Ngày 10.3

Thánh Biển Đức chăm lo đặc biệt đến của cải đan viện, đến những vật dụng anh em thường dùng. Ngài trao phó công việc này cho viện phụ, và cho những người được viện phụ ủy thác. Điều ấy có nghĩa là những đồ dùng, của cải vật chất cũng quan trọng. Đây không phải chỉ là chuyện nhỏ hay phụ thuộc. Nhưng liên quan tới vị trí của con người trong vạn vật.

Thánh Biển Đức không chỉ đánh giá đồ vật theo phương diện thực dụng mà thôi. Do vật chất tính, đồ vật giữ một vị trí, một vai trò đặc biệt trong tạo thành. Đàng khác, mọi đồ vật đều cho thấy một phần nhỏ tài năng của con người đã biến đổi nó từ nguyên liệu thô.

Một cách nào đó, mọi đồ vật đều là dấu hiệu về mối liên kết giữa quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa và hoạt động biến đổi của con người. Vì vậy, đồ vật có một giá trị riêng trong cách nhìn của kitô hữu về thế giới. Nơi đồ vật hành vi sáng tạo của Thiên Chúa và tác động biến đổi của con người sát cánh với nhau. Đồ vật gần như là một dụ ngôn về việc Nhập thể.

Có lẽ trong một thế giới mà người ta làm hư hỏng và vất bỏ mọi sự, trong một thế giới mà người ta thường đánh mất giá trị của sự vật, điều quan trọng là đời sống đan tu phải nên như một ngôi trường dậy cho biết tôn trọng công trình sáng tạo của Thiên Chúa và tác động biến đổi của con người.

B – Ngày 10.7

Trong chương này thánh Biển Đức liệt kê những qui luật căn bản trong việc chia sẻ quyền bính. Thứ nhất, viện phụ phải là người chịu trách nhiệm chính. Thứ hai, ngài ủy thác một phần trách nhiệm cho những anh em có khả năng. Thứ ba, tuyệt đối cần thiết phải giám sát việc thi hành trách nhiệm đã được ủy thác.

Qui luật thứ nhất: Điều làm ta ngạc nhiên khi đọc tu luật đó là thánh Biển Đức trao cho viện phụ mọi trách nhiệm. Viện phụ phải quan tâm tới phòng bệnh, phòng may, nhà khách, các tài sản của đan viện. Mọi chức vụ, mọi bổn phận đều do viện phụ trao. Như thế sẽ có hai hệ quả: không ai là chủ sở hữu nhiệm vụ đã lãnh nhận, và mỗi người phải tường trình về nhiệm vụ của mình, cả viện phụ nữa.

Qui luật thứ hai, đó là nguyên tắc ủy quyền dựa trên sự tín nhiệm chứ không chỉ dựa vào khả năng. Không phải vì có khả năng mà đã đủ điều kiện để được ủy thác một nhiệm vụ nào đó. Còn phải được viện phụ và cộng đoàn tín nhiệm nữa. Người được tín nhiệm giao phó một trách vụ nào phải hành động sao để chứng tỏ mình xứng đáng với sự tín nhiệm đó.

Để biết được điều này, thánh Biển Đức ấn định qui luật thứ ba trong việc ủy thác nhiệm vụ. Đó là công việc giám sát mà viện phụ phải thực hiện. Việc giám sát gồm hai điều: Viện phụ phải làm bản thống kê tài sản và phải kiểm tra việc sử dụng những tài sản ấy.

Cái nguy mà người hữu trách có thể sa vào đó là coi những của cải mình quản lý nhân danh viện phụ như là của riêng mình. Dùng của chung vào mục đích riêng, luật dân sự gọi là biển thủ công quĩ. Đối với thánh Biển Đức, điều ấy có nghĩa là phản bội sự tín nhiệm của viện phụ và cộng đoàn. Như vậy, một cách nào đó, là quên mất ơn gọi làm đan sĩ của mình.

C – Ngày 9.11

Một phân biệt sai lầm mà thánh Biển Đức mặc nhiên bác bỏ trong chương 32 này, đó là phân biệt giữa thiêng liêng và vật chất. Trong tu luật của ngài, thánh nhân đề cập tới những phương diện vật chất cũng như những phương diện thiêng liêng của đời sống đan tu đồng đều nhau. Căn cứ theo nguyên tắc cơ bản đòi hỏi đời sống đan tu hướng tới việc thống nhất hữu thể, thánh Biển Đức không cho rằng chăm lo đến của cải vật chất là kém quan trọng.

Ta có thể lấy làm lạ về chuyện đó khi mà, trong não trạng của xã hội tiêu thụ ngày nay, đồ vật làm ra để bỏ đi và được thay bằng những đồ mới. Ta không còn sống trong một thế giới mà mục đích là thu góp nữa, nhưng cái mới, thời trang đã trở thành qui luật của cuộc sống. Trái lại, thánh Biển Đức hoàn toàn không chấp nhận não trạng này.

Đối với ngài, đồ vật có giá trị của nó, và có mối tương quan sâu xa giữa vật chất và thiêng liêng, giữa cách ta sử dụng đồ vật và đời sống nội tâm của ta. Dùng đồ bừa bãi, để dơ bẩn là triệu chứng của một nội tâm lộn xộn.

Đối với đan sĩ, hầu như có mối tương quan bí tích với các sự vật. Thánh Biển Đức nhắc lại điều đó khi nói về quản lý ở chương 31, câu 10: “Hãy coi tất cả những dụng cụ và của cải đan viện như bình thánh trên bàn thờ”. Như vậy, tương quan giữa ta với sự vật không phải là không đáng kể, nó nói lên mối liên hệ của ta với cái hiện thực, với thân xác ta, với người khác. Có một minh triết về các sự vật, dậy ta thăng tiến trong đời sống nội tâm. Chỉ cần nhìn những anh em nào đó làm việc ta sẽ hiểu được điều ấy.

Chương 33

CÁC ĐAN SĨ CÓ ĐƯỢC GIỮ

CỦA GÌ RIÊNG KHÔNG?

Ngày 11.3 – 11.7 – 10.11    

1 Phải đặc biệt loại trừ tận gốc tật xấu giữ của riêng khỏi đan viện. 2  Đừng ai tự tiện cho hay nhận một vật gì khi chưa có phép viện phụ, 3 hoặc giữ riêng vật gì, tuyệt nhiên không có vật gì, dù cuốn sách, dù bảng viết, hay cây bút, nói tắt là không gì cả, 4 vì ngay đến bản thân và ý muốn họ cũng không còn quyền làm chủ nữa. 5 Mọi nhu cầu, hãy mong chờ nơi gia trưởng, không bao giờ đan sĩ được có của gì mà không do viện phụ phân phát hay cho phép. 6 Mọi sự hãy là của chung, như đã chép, đừng ai nói hoặc chiếm lấy vật gì làm của riêng mình. 7 Nếu gặp ai vui thích với tật xấu rất độc hại này, hãy cảnh cáo một hai lần, 8 nếu không sửa mình sẽ bị phạt theo luật.

Chú giải:

A – Ngày 11.3

Với thánh Biển Đức, dính bén của cải là nết xấu lớn nhất. Điều này có thể khiến ta ngạc nhiên. Thực vậy, nếu ai hỏi nết xấu nào lớn nhất, ta nghĩ ngay tới dâm ô hay mê ăn uống, nóng giận hay kiêu căng. Còn với thánh Biển Đức thì đó là thói dính bén của cải. Tại sao? Ngài sẽ giải thích trong chương 33 này.

Thánh Biển Đức nêu lên hai luận cứ. Trước hết, của cải ngăn cản ta học biết đợi chờ nơi người khác. Khi giữ của cải làm của riêng, đan sĩ có nguy cơ tưởng mình đã tự đủ cho mình, chẳng cần phải mong đợi gì nữa. Họ đã đầy đủ rồi. Họ đi ngược với con đường dân Israel đã đi trong sa mạc. Khi đón nhận manna từng ngày một, Israel đã học biết được rằng sự sống là hồng ân Thiên Chúa ban, một ơn nhưng không, một ân sủng. Đan sĩ nào thu tích của cải hay có của cải để cho đi là tự thoát khỏi cuộc mạo hiểm nội tâm, cuộc mạo hiểm mà xưa kia Israel đã dấn thân vào. Đan sĩ ấy đã đi trật khỏi ơn gọi sâu xa của  mình.

Luận cứ hai thánh Biển Đức rút ra từ Thánh Kinh, trong Cv 4,32: “Mọi sự đều là của chung”. Câu này nằm trong đoạn văn nổi tiếng mô tả cộng đoàn kitô hữu tiên khởi: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo mà chỉ có một lòng một ý. …”. Luận cứ hai này lặp lại luận cứ một: tất cả đều là ơn Chúa ban, nhưng đi xa hơn một chút. Đích điểm mà sách Công Vụ nhắm tới, tức là nơi Thiên Chúa biểu lộ ơn sủng của ngài khi ban cho mỗi người điều họ cần, chính là cộng đoàn. Người nào thu tích của cải cho riêng mình là tự tách mình ra khỏi đời sống Giáo Hội, khỏi mối hiệp thông trong đức tin. Họ tự loại mình ra bên lề cộng đoàn.

Như vậy, đối với thánh Biển Đức, thói xấu giữ của riêng vừa tách lìa ta khỏi Thiên Chúa, vì ta không chờ đợi gì nơi ngài nữa, vừa tách lìa ta khỏi anh em, vì ta từ chối sống hiệp thông với họ như cộng đoàn kitô hữu tiên khởi.

B – Ngày 11.7

Trong cuốn sách rất hay nhan đề “Có và là”, tác giả Erik Fromm quảng diễn ý tưởng về hai luận lý trái nghịch nhau. Khi luận lý “có” đặt ta vào tương quan hướng ngoại, thì ngược lại luận lý “là” giúp ta đi vào nội tâm.

Hẳn đó phải là lý do khiến thánh Biển Đức tỏ ra nghiêm khắc đối với những anh em tích trữ của cải, tìm cách để “có” bằng mọi giá. Điều đó ngăn cản họ đi vào chiều sâu của hữu thể mình, vào “con người nội tâm” mà thánh Phaolô bảo sẽ triển nở khi con người “bên ngoài” hay “con người cũ” tàn lụi đi. Có và là, “con người bên ngoài” hay “con người cũ” và “con người nội tâm” hay “con người thiêng liêng”, đó là thách đố cho ta.

Trong viễn cảnh này, cái xấu không phải là sự vật, thế gian, quyền lực, giầu có nhưng là tương quan của ta với chúng. Tác giả Erik Fromm phân tích rất hay khi mô tả sự khác biệt giữa “có một quyền bính” và “là một quyền bính”. Luận lý “là” không có nghĩa là thiếu khả năng, chểnh mảng, ươn lười. Luận lý “là” không kết án hành động trong thế gian, nhưng trái lại nó thay đổi hành động ấy.

Thiết nghĩ luận lý “là” được xây dựng trên hai nguyên tắc căn bản thánh Biển Đức nêu lên trong chương 33 này. Nguyên tắc thứ nhất được nói ở câu 5: “Mọi nhu cầu, hãy mong chờ nơi gia trưởng”, có nghĩa là những gì ta có, ta đều nhận được từ người khác, ta quản lý chứ không sở hữu chúng. Nguyên tắc thứ hai được nói ở câu 6: “Mọi sự hãy là của chung”. Như vậy, “là” đòi phải có hai chiều kích: một đàng là khó nghèo và tin tưởng, đàng khác là nghĩ tới tha nhân và bác ái.

C – Ngày 10.11

“Mọi sự hãy là của chung”. Ta có thể tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại cho việc chia sẻ của cải với nhau là quan trọng như thế, tới độ coi đó như một trong những nền tảng của đời sống đan tu? Và để nêu bật tầm quan trọng này, ngài qui chiếu về sách Công Vụ (4,32), trong đó thánh Luca mô tả cuộc sống của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Tại sao thánh Biển Đức nhấn mạnh đến thế?

Thực ra, thánh nhân chỉ nhắc lại đề tài của Cassianô. Trong bài Thuyết giáo 18, ông giải thích rằng đời sống đan tu nảy sinh từ lòng khao khát nơi một số kitô hữu muốn sống như cộng đoàn tiên khởi của các môn đệ Chúa Kitô, vào lúc mà lòng nhiệt thành ban đầu trong Giáo Hội nguội dần đi (TG 18,5). Và Cassianô nêu sự kiện là sau khi các Tông Đồ khuất bóng, đã nảy sinh vấn đề liên quan đến việc để chung của cải. Như thế, đời sống đan tu xuất hiện như ước mong trở về cội nguồn Kitô giáo, khi mà các môn đệ chia sẻ với nhau mọi thứ, vì có Chúa ở giữa họ.

Đó phải là lý do sâu xa nhất, xác thực nhất của việc chia sẻ, trong đời sống cộng đoàn, những của cải và cả những niềm vui, những nỗi khổ, như lời thánh Phaolô: nếu ta chia sẻ mọi sự với nhau là bởi vì ta cảm nghiệm được có Chúa ở giữa ta.

Nếu bỏ mất ý nghĩa sâu xa này của cuộc sống đan tu, ta sẽ mau chóng trở nên hoài nghi đối với anh em, ta sẽ không tin tưởng nhau nữa, sẽ giữ lấy cho riêng mình những thứ mình nhận được. Ta sẽ coi nhẹ ích lợi chung để chỉ nghĩ đến cái lợi riêng cho mình. Và câu sau đây của sách Công Vụ sẽ là một trong những tiêu chuẩn chắc chắn nhất giúp ta nhận định xem mình có thật sự sống trước mặt Chúa không: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32).

Chương 34

PHẢI CHĂNG MỌI NGƯỜI ĐỀU NHẬN

NHU YẾU PHẨM BẰNG NHAU?

Ngày 12.3 – 12.7 – 11.11  

1 Có lời chép: “Đã phân phát cho ai nấy tùy nhu cầu của họ”, 2 do vậy cha không nói phải thiên vị cá nhân – mong đừng xảy ra như thế. Nhưng hãy xét đến sự yếu đuối của anh em. 3 Kẻ cần ít, hãy cảm tạ Chúa và đừng buồn; 4 người cần nhiều, hãy tự hạ vì mình yếu đuối, chứ đừng tự cao vì được thương xót. 5 Như thế mọi phần tử đều sống trong bình an. 6 Trước hết, đừng phàn nàn vì bất cứ lý do nào. Đừng để thói xấu đó xuất hiện, dù bằng lời nói hay cử chỉ. 7 Ai lỗi phạm điều này sẽ bị trọng phạt.

Chú giải:

A – Ngày 12.3

Vấn đề đặt ra cho thánh Biển Đức thật là gai góc. Thực vậy, viện lẽ công bằng, ta có khuynh hướng muốn cung cấp cho mọi người cùng một thứ như nhau. Nhưng khi nhắc lại lời Thánh Kinh (Cv 4,32 tt), thánh Biển Đức lưu ý rằng nhu cầu mỗi người mỗi khác, và phải để ý tới điều này. Nhưng khi đó thì làm sao tránh được thói kêu ca lẩm bẩm, có thể hủy hoại cả đến một cộng đoàn hiệp nhất và vững chắc hơn cả?

Thánh Biển Đức đề nghị một giải pháp độc đáo. Đó là ai nhận được ít hãy cảm tạ Chúa vì mình chỉ cần ít thôi, ai nhận được nhiều hãy biết rằng mình được như vậy chỉ vì mình yếu đuối hơn. Ai có thể thức dậy đọc Kinh Đêm mỗi ngày, hãy dâng lời cảm tạ vì được Chúa ban cho đủ sức khỏe. Ai không thức dậy được hãy chấp nhận vì sự yếu đuối của mình. Về việc giữ chay hoặc bất cứ việc gì khác cũng vậy.

Giải pháp duy nhất thánh Biển Đức đề nghị là tạ ơn và khiêm tốn. Hai việc đó chỉ là một. Vì chỉ người khiêm tốn mới có thể tạ ơn, bởi lẽ họ biết rằng tất cả đều do Thiên Chúa ban. Và chỉ việc tạ ơn mới giúp ta ở khiêm tốn, bởi chưng người khiêm tốn biết hân hoan vì nhận được ơn Chúa, nhưng cũng biết cảm thông sự yếu đuối của người khác.

B – Ngày 12.7

Trong chương ngắn này ta thấy có hai điều tuy hoàn toàn đối nghịch nhau nhưng lại cùng tồn tại trong tâm thức và cách ứng xử của ta. Đó là, một đàng phải triệt để tôn trọng sự đồng đều, đàng khác phải nhìn nhận có những nhu cầu khác nhau, tùy theo từng cá nhân và từng độ tuổi.

Đòi hỏi đồng đều được ghi sẵn trong Thánh Kinh. Tất cả ta đều thuộc dòng dõi Ađam-Evà. Vì thế trong sách Samuel, tách biệt một người ra để đặt làm vua là có tội. Trong Thánh Kinh, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể phân biệt, như khi ngài chọn các Thẩm phán, các Tiên tri. Vậy là sự đồng đều được gia giảm bởi ơn gọi đặc biệt.

Nhìn nhận có sự khác biệt, có ơn riêng được ban cho từng người sẽ quân bình hóa sự đồng đều quá khắt khe. Trong tu luật thánh Biển Đức thường thấy nói tới sự khác biệt về đồ ăn thức uống, kích thước y phục, tuổi tác và khả năng thích hợp để đảm trách các nhiệm vụ, trình độ hiểu biết của người thụ huấn để chỉ cần một lời nhắc nhở hay phải dùng đến roi vọt.

Với thánh Biển Đức, tu luật được cấu trúc bằng việc phối hợp hai nguyên tắc trái ngược nhau đó. Mọi anh em đều bình đẳng dù thuộc bất cứ dòng dõi nào, nhưng một số người lại có những nhu cầu khác biệt nhau. Nghệ thuật phân định và quản trị của viện phụ cũng như các người hữu trách là biết dung hòa mọi sự: không thiên vị cũng không tuyệt đối đồng đều. Thật khó khăn và cần nhiều cố gắng để thực hiện được điều đó, nhưng đây lại là phương cách tuyệt vời dậy cho ta có được tự do nội tâm.

C – Ngày 11.11

Bằng nhau là một trong những nguyên tắc cơ bản của đời sống cộng đoàn. Những đối xử thiên vị, những ưu đãi sẽ làm nảy sinh ghen tương, kêu trách, như thánh Biển Đức nhấn mạnh ở câu 6. Tuy nhiên, đây không phải là bằng nhau theo kiểu dân chủ, tức là san bằng mọi khác biệt. Thánh Biển Đức xác định ngay ở câu 1 khi nhắc lại lời sách Công Vụ: “cấp phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu”.

Điều ấy có vẻ như đi ngược với nguyên tắc đồng đều, bằng nhau. Làm sao kết hợp được nguyên tắc đồng đều với sự tôn trọng những khác biệt? Để hiểu cái có vẻ như trái ngược đó, cần thiết phải phân biệt. Nhưng để giải thích điều này, xin đưa ra một hình ảnh và sau đó nhắc lại nhận xét của một anh em.

Hình ảnh ấy đã được thánh Têrêsa Hài Đồng sử dụng. Muốn đổ đầy một cái ly lớn và một cái ly nhỏ, ta chẳng cần hai lượng nước bằng nhau. Ly lớn và ly nhỏ cùng được đổ đầy, không phải bằng hai lượng nước như nhau, nhưng tùy theo sức chứa của mỗi cái. Ly lớn cần nhiều, ly nhỏ cần ít.

Ngày kia, có anh em nhận xét về một vị cao niên rằng khi ngài tiếp đón những anh em đến thăm ngài, thì mỗi người đều cảm thấy mình được ngài quí mến nhất. Nhận xét này quan trọng cho viện phụ và những vị hữu trách khác trong cộng đoàn, nhưng cũng cho mỗi người chúng ta. Khi một anh em đến xin hay nói với ta điều gì, họ có cảm tưởng được quí mến nhất không? Ta có biết đón tiếp mỗi người anh em như vị cao niên kia không? Chẳng trừ một ai?

Chương 35

CÔNG TÁC LÀM BẾP TRONG TUẦN

 Ngày 13.3 – 13.7 – 12.11   

1 Anh em hãy phục vụ lẫn nhau, nên không ai được miễn công tác làm bếp, trừ khi bệnh tật hay bị ngăn trở bởi một công tác nào khác hữu ích hơn; 2 vì nhờ đó ta được thêm phần thưởng và đức ái. 3 Đối với những anh em yếu sức, hãy cho người phụ giúp để họ chu toàn nhiệm vụ mà không buồn phiền; 4 vậy mọi người đều được phụ giúp, tùy tình trạng cộng đoàn và hoàn cảnh địa phương. 5 Nếu cộng đoàn đông thì miễn công tác làm bếp cho quản lý, hay cho những ai bận công tác nào hữu ích hơn, như cha đã nói trên. 6 Còn những anh em khác, hãy lấy đức ái mà phục vụ lẫn nhau. 7 Ngày thứ bảy, người ra phiên hãy tổng vệ sinh nhà bếp. 8 Khăn anh em dùng lau chân tay, phải giặt sạch. 9 Kẻ ra và người vào phiên hãy phụ nhau rửa chân cho anh em. 10 Các dụng cụ công tác, hãy giao trả cho quản lý sạch sẽ lành lặn; 11 quản lý lại giao cho người vào phiên, như thế ngài biết trao gì và nhận gì.

Chú giải:

A – Ngày 13.3

Có thể tóm gọn cả chương 35 vào câu đầu tiên: “Anh em hãy phục vụ nhau”. Việc phục vụ ở nhà bếp, cũng như tất cả những việc khác, chỉ là hệ quả của nguyên tắc cơ bản đó trong đời sống cộng đoàn. Thực thế, phục vụ nhau là biểu hiện cách cụ thể mối hiệp thông sống động với Thiên Chúa mà ta cảm nghiệm được.

Phục vụ không chỉ là hệ quả của cảm nghiệm nội tâm. Đó cũng là con đường đưa ta tới cảm nghiệm ấy. Thánh Biển Đức quan niệm về con đường này theo hai phương diện: Tình yêu dẫn tới phục vụ, phục vụ khơi dậy và tăng cường tình yêu. Không thể tách rời.

Nhân một cuộc hội thảo, người ta đã nói nhiều về sự quân bình trong cuộc sống tại các cộng đoàn chúng ta. Nhiều vị bề trên nêu vấn đề mỏi mệt và căng thẳng nơi anh em. Có ý kiến: Phải chăng nên thay đổi thời dụng biểu, giảm bớt giờ kinh, để anh chị em dễ thở hơn?

Khi đó Dom Mauro, viện phụ Hauterive, nêu lên tấm gương của những anh em cao niên trong cộng đoàn ngài, họ cầu nguyện và làm việc nhiều hơn những anh em khác mà vẫn tham dự đầy đủ các giờ kinh. Ngài cho rằng vấn đề thực sự là làm việc để phục vụ. Tình yêu sẽ khiến mọi việc nên nhẹ nhàng, dù là việc ta không thích. Trái lại, khi không yêu ta sẽ không thực sự trao hiến, và mọi sự sẽ ra nặng nề.

Như vậy, vấn đề đích thực về sự quân bình trong cuộc sống đan tu không phải là công việc hay nhiệm vụ ta đảm nhận, nhưng là tình yêu ta trao hiến khi thi hành nhiệm vụ.

B – Ngày 13.7

Nếu có công việc nào giúp ta đi vào mầu nhiệm đan tu, thì đó chính là công việc của những anh em làm bếp, phụ trách nhà cơm và phục vụ bàn ăn. Vì các việc ấy không những đòi ta phải sẵn sàng, nhưng nhất là đòi ta phải siêu thoát chính mình. Ta hãy nói đến từng việc một.

Người làm bếp, ngoài những công việc cụ thể với nồi niêu xoong chảo, còn học được ba điều. Trước hết họ học cách làm cho ngon những món ăn mà đôi khi họ không thích: họ không thể bắt kẻ khác ăn những món hợp với sở thích của mình. Tiếp đến, họ không nên mong được khen, nhưng phải luôn luôn sẵn sàng chấp nhận bị chê khi làm dở một món nào đó. Và sau cùng, họ phải bắt đầu lại mỗi ngày.

Về việc phụ trách nhà cơm, có lẽ đây là công việc bạc bẽo nhất, vì người ta luôn luôn thấy những cái thiếu sót, mà chẳng bao giờ thấy những gì người phụ trách đã làm. Nhất là trong một cộng đoàn lớn, nơi người ta chỉ quen ngồi yên để được phục vụ. Phải cần nhiều tình yêu và khiêm tốn mới thi hành được công tác này.

Sau cùng là những người phục vụ bàn ăn. Trong lúc thi hành nhiệm vụ họ có cơ hội khám phá ra rằng phục vụ theo gương Chúa Giêsu thật là tốt lành và thú vị. Phẩm chất việc phục vụ cho thấy được phẩm chất đời sống nội tâm, vì chính qua việc phục vụ đó chứ không phải qua những lời hay ý đẹp mà ta có thể lượng định cách cụ thể mức độ hoán cải của mình. Biết phục vụ mọi người với cùng một tình yêu thương. Làm cho anh em những gì ta muốn họ làm cho mình. Đó là sống Phúc Âm cách cụ thể và đích thực.

C – Ngày 12.11

Trong cộng đoàn đan tu, không có những người phục vụ và những người được phục vụ như trong thế gian. Nhưng mọi anh em đều phục vụ lẫn nhau. Lời nhắc nhở “Anh em hãy phục vụ lẫn nhau” (c.1) là chủ yếu để hiểu được cộng đoàn đan tu là gì: một cộng đoàn những người bình đẳng, một nhóm người tự nguyện và dứt khoát chọn phụng sự Chúa và phục vụ nhau.

Điều này mang nhiều hệ quả trong cuộc sống cụ thể. Trước hết có nghĩa là tất cả chúng ta đều bình đẳng về phẩm giá, quyền lợi và nghĩa vụ. Nếu giữa chúng ta một số người mang những nhiệm vụ đặc biệt, và có những phương tiện để giúp hoàn thành, thì luôn luôn phải cẩn thận kẻo lại coi như của riêng mình những thứ được giao để phục vụ anh em.

Nếu viện phụ có phòng làm việc riêng, có xe để lo công việc, chính là để phục vụ cộng đoàn và Hội Dòng tốt hơn. Ngài không nên quên điều đó. Cũng vậy, nếu người giữ cửa có bổn phận trực điện thoại thì không phải anh muốn gọi cho ai tùy ý. Không phải vì quản lý hay những vị hữu trách nào khác có thể giữ tiền mà họ muốn mua gì cho mình cũng được. Trái lại, người hữu trách phải rất cẩn thận về cách dùng những phương tiện được giao để phục vụ cộng đoàn.

Phục vụ không phải là chuyện tự nhiên và dễ dàng. Ta có thể rất dễ lạm dụng bổn phận được giao. Vì thế, cần phải lắng nghe những gì anh em nhận xét, những lời nhắc khéo, và tỉnh táo với mình. Vì ta luôn luôn có thể vô tình sử dụng những gì được giao phó để biến thành đối tượng quyền lực và quên mất rằng mình là những người tôi tớ.

Ngày 14.3 – 14.7 – 13.11    

12 Một giờ trước bữa ăn, ngoài khẩu phần thường lệ, anh em phiên tuần được ăn uống chút gì, 13 để khi đến giờ cơm, họ có thể phục vụ anh em mà khỏi phàn nàn vì nhọc mệt quá. 14 Tuy nhiên, trong những ngày đại lễ, phải đợi cho xong lễ đã. 15 Người vào và kẻ ra phiên hãy quỳ phục trước mặt mọi người trong nhà nguyện, khi vừa kết thúc giờ Kinh Sáng Chúa nhật, để xin cầu nguyện cho mình. 16 Kẻ ra phiên đọc: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa đã trợ giúp và an ủi con”. 17 Đọc xong ba lần thì nhận phép lành rồi lui ra. Sau đó, người vào phiên đọc: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con, muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”. 18 Cũng đọc ba lần như trên, cộng đoàn lặp lại, rồi lãnh phép lành mà vào phiên.

Chú giải:

A – Ngày 14.3

“Anh em hãy yêu thương nhau” khi phục vụ nhau! Đây có thể là lời tóm tắt chương 35. Và chắc hẳn ta nên đọc chương này theo viễn tượng đó, với chiều kích phụng vụ được thánh Biển Đức đưa vào. Xin nêu hai nhận xét.

Nhận xét thứ nhất là về mối liên quan giữa phụng vụ và cuộc sống. Với thánh Biển Đức, không hoạt động nào của con người bị loại trừ khỏi phụng vụ. Vì trọn cả cuộc đời ta, dù trong những chi tiết nhỏ mọn nhất, đều hàm chứa sự hiện diện nhiệm mầu của Thiên Chúa. Không gì xa lạ đối với ngài. Chính vì thế, giúp bàn là thể hiện một cuộc phiêu lưu thiêng liêng đích thực.

Nhận xét thứ hai là khi phục vụ anh em, mọi anh em, không trừ ai, ta tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là một mầu nhiệm mang đến cho ta sức mạnh: vì Thiên Chúa hiện diện, và một mầu nhiệm về nỗi yếu hèn của ta: vì không có Chúa, ta không thể làm được gì.

Đó là hai chiều kích thánh Biển Đức quảng diễn ở đây. Trước hết nơi câu 16: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa đã trợ giúp và an ủi con”. Chúa ở đó, gần bên con, trong những lúc khó khăn và tăm tối. Rồi nơi câu 17: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con; muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”. Đó là công thức Cassianô đề nghị trong bài Thuyết giáo X để dùng làm lời cầu nguyện liên lỉ, và thánh Biển Đức lại dùng làm câu mở đầu giờ thần vụ. Quả thực, khi phục vụ, dù bằng cách nào, ta luôn luôn cảm nghiệm được những giới hạn và sự nghèo nàn của ta. Cái nghèo nàn ấy thật là diễm phúc, vì nhờ nó mà ta đáng được Chúa phù trợ!

B – Ngày 14.7

Để có thể phục vụ anh em mà không phàn nàn (c.3), người phục vụ phải nhận được nhiều hơn một chút. Ở đây thánh Biển Đức nói tới phần phụ trội về thức ăn, nhưng ta cũng có thể coi đó như một phụ trội về sự quan tâm, thương mến, tôn trọng. Người phục vụ có nhu cầu thấy việc mình làm được nhìn nhận, được trân trọng, để vui vẻ tiếp tục công việc với tất cả nhiệt tình.

Thường xẩy ra là anh em hay bề trên coi việc phục vụ của một anh em như là việc họ phải làm. Và cứ mãi mãi chẳng được quan tâm cũng chẳng bao giờ nhận được một lời cám ơn, người anh em ấy có thể sẽ thấy chua cay buồn tủi, đôi khi còn nản chí nữa. Rất ít khi ta để ý đến chuyện con người cần được quan tâm như thế nào.

Ta coi việc anh em vất vả phục vụ mình là chuyện bình thường, chẳng cần phải cám ơn hay phải quan tâm gì cả. Nhưng ngay khi có tí trục trặc hay thiếu cái gì rất nhỏ mọn thôi, ta liền đòi phải giải quyết cho bằng được, đôi khi chẳng có chút bác ái nào.

Mỗi người chúng ta đều có thể vấp phải chuyện đó. Vì ta rất dễ quên rằng anh em vất vả vì ta mà không tính toán, họ trao hiến ta nghị lực, tuổi trẻ, tài năng, đôi khi tới cạn kiệt, và tất cả chỉ vì lòng yêu mến Chúa Kitô.

Vậy thì, trước khi phản ứng, đòi hỏi hay chỉ trích, có lẽ khôn ngoan và hợp lý là ta nên tự hỏi mình đã biết nói lời cám ơn và ca ngợi người anh em bởi họ đã hy sinh cực nhọc vì mình chưa.

C – Ngày 13.11

Trong chương này, nghi thức vào phiên tuần phục vụ bàn ăn giống như nghi thức khấn dòng thánh Biển Đức nói ở chương 58. Anh em phục vụ sấp mình trước mặt mọi người để xin cầu nguyện cho mình (35,15 và 58,23), và họ xin ơn Chúa trợ giúp trong khi hát ba lần một câu Thánh Vịnh (35,17 và 58,21).

Vài điểm giống nhau này cho ta cảm tưởng thánh Biển Đức cho việc phục vụ anh em là điều quan trọng. Có mối giây liên hệ thiêng liêng hầu như thần bí giữa việc khấn dòng và việc phục vụ bàn ăn. Thoạt tiên có vẻ kỳ lạ khi đặt ngang nhau hai sự kiện rất khác biệt nhau như thế. Thực vậy, khấn dòng là một việc long trọng và chỉ làm một lần duy nhất, còn phục vụ bàn ăn là chuyện thông thường và diễn ra hằng ngày.

Thực ra, không đến nỗi kỳ lạ như ta tưởng. Suốt trong tu luật, thánh Biển Đức khai triển một khoa thần bí với đôi chân đứng trên mặt đất, giống như thánh Têrêsa Avila sẽ làm mười một thế kỷ sau. Sống cho Chúa được thực hiện trong những việc nhỏ mọn nhất, đặc biệt là những việc đòi ta phải hy sinh nhiều hơn.

Đàng khác, làm sao có thể đi theo Chúa Kitô, người Tôi Tớ tuyệt hảo, nếu không theo ngài trong cuộc sống từng ngày. Vì, như chính ngài đã nói: “Điều gì các con làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất đây là các con đã làm cho Ta”.

Chương 36

ANH EM ĐAU YẾU

Ngày 15.3 – 15.7 – 14.11    

1 Trước hết và trên hết mọi sự phải để ý săn sóc bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Kitô, 2 vì ngài đã phán: “Ta đau ốm và các con đã viếng thăm”, 3 và: “Điều gì các con làm cho một trong những kẻ bé mọn này là làm cho chính Ta”. 4 Còn những anh em đau ốm phải nhận thức rằng người ta phục vụ mình là vì tôn kính Chúa, nên đừng quá yêu sách mà làm phiền lòng những kẻ giúp mình. 5 Tuy nhiên, ta phải kiên nhẫn chịu dựng những anh em ấy, vì nhờ họ mà ta được nhiều công phúc hơn. 6 Viện phụ phải rất mực quan tâm để ý kẻo anh em đau ốm bị bỏ rơi cách nào chăng. 7 Nên cho anh em đau ốm ở riêng một nơi. Hãy cử một anh em có lòng kính sợ Chúa và siêng năng cần mẫn để săn sóc họ. 8 Phải cho bệnh nhân tắm rửa mỗi khi cần. Còn người mạnh khoẻ và nhất là anh em trẻ thì ít khi cho phép ấy. 9 Anh em đau ốm và kiệt sức cũng nên cho dùng thịt để bổ sức lại. Khi đã phục hồi sức khoẻ, những anh em ấy lại kiêng thịt như bình thường. 10 Viện phụ phải hết sức quan tâm kẻo quản lý hay những anh em phụ trách chểnh mảng việc săn sóc bệnh nhân, vì chính ngài sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ thiếu sót nào của môn đệ.

Chú giải:

A – Ngày 15.3

Thánh Biển Đức dành cả một chương để nói về việc chăm sóc bệnh nhân. Chương này được ngắt quãng nhiều lần bằng một điệp khúc mỗi lần mỗi nhấn mạnh hơn: -trước hết phải chăm sóc anh em đau ốm (c.1); -phải rất mực săn sóc (c.6); -phải hết sức quan tâm (c.10). Chương này được chia làm hai phần. Phần một (c.1-6) nói về tinh thần phục vụ bệnh nhân. Phần hai (c.7-10) nói về cách thức phục vụ.

Để giải thích lý do của việc quan tâm đặc biệt đến những anh em đau ốm, thánh Biển Đức không dựa vào yếu tố nhân bản, như ngài làm ở chương sau liên quan tới người già và trẻ em. Ở đây lý do thuộc lãnh vực thần học: Chính Chúa Kitô hiện diện cách hết sức đặc biệt nơi bệnh nhân yếu đuối. Và điều đó căn cứ theo hai bản văn Thánh Kinh: -Mt 35, 36: “Ta đau ốm và các con đã viếng thăm”; Mt 25, 40: “Điều các con làm cho một trong những người bé mọn nhất đây là các con làm cho chính Ta”.

Với thánh Biển Đức, việc đan sĩ quan tâm đến người nghèo, người yếu đuối là điều rất quan trọng, dù đó là anh em trong cộng đoàn hay người ngoài đến với đan viện. Vì Thiên Chúa không tỏ mình ra trong điều cao cả và sự thành công, nhưng trong cái bé mọn và yếu đuối. Một cách nào đó, ta cần phải thay đổi cái nhìn để sự yếu đuối của anh em cũng như của mình không ngăn cản nhưng trở nên cơ hội cho Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của ngài.

Ta dễ bị cám dỗ chỉ thấy Chúa khi thuận lợi hơn là khi gặp những giới hạn, những khó khăn, nghèo hèn. Bệnh tật, yếu đuối dễ khiến ta nản lòng, còn sức khỏe và sự trẻ trung làm ta phấn khởi. Nhưng ngược lại, Thiên Chúa đã chọn sự yếu đuối để tỏ mình ra. Nếu ta nản lòng, nếu ta buông xuôi, đó là vì ta cậy dựa vào sức riêng mình, và như thế sẽ chẳng lâu bền được. Vì vậy, đối với thánh Biển Đức, đón nhận anh em đau yếu, anh em cần được ta trợ giúp là một trắc nghiệm để biết ta đã thay đổi được cái nhìn của mình hay chưa.

 B – Ngày 15.7

“Trước hết và trên hết mọi sự”. Ta có thể thắc mắc tại sao thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc chăm sóc bệnh nhân như thế. Chắc hẳn những điều kiện xã hội và chế độ bệnh nhân thời thượng cổ cho ta hiểu được điều đó. Thánh Biển Đức sống trong một xã hội mà người yếu đuối, trẻ nhỏ, người nghèo không có quyền công dân. Nhưng phải chăng đó thực sự là lý do khiến ngài quan tâm?

Thánh Biển Đức quan tâm trước hết không phải về mặt nhân bản, nhưng điều quan trọng đối với ngài chính là Chúa Kitô hiện diện nơi bệnh nhân. “Ta ốm đau và các con đã thăm viếng”, “Điều các con làm cho một trong những kẻ bé mọn này là làm cho chính Ta”. Như vậy, thánh Biển Đức muốn thức tỉnh ta về mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện cách ẩn khuất, rất gần bên ta, gần tới độ ta có thể đụng tới ngài được.

Kinh nghiệm đụng chạm tới Chúa Kitô nơi bệnh nhân đã là khởi đầu cho ơn gọi của nhiều vị thánh lớn qua mọi thời đại. Kinh nghiệm ấy đã giúp thánh Phanxicô vượt qua nỗi ghê sợ mà ôm lấy người phong cùi, kinh nghiệm ấy đã khiến Mẹ Têrêsa đón nhận những người hấp hối bên đường về nhà để họ được chết cách xứng đáng hơn.

Nhưng không chỉ có thế. Nỗi yếu đuối thể xác hoặc tinh thần nơi người anh em khiến ta đụng chạm tới sự yếu đuối của mình. Thường thì điều đó làm ta sợ. Nhưng hãy cẩn thận, đừng biện bạch hay viện đủ lý do để tránh né cái sợ ấy và từ chối gặp gỡ Chúa Kitô. Chính khi tiếp xúc với sự yếu đuối của người khác mà ta được mời gọi gặp gỡ nỗi bất lực của mình, như nỗi bất lực của các môn đệ bên chân thập giá Chúa Kitô. Có lẽ vì thế, hơn cả vì sợ hãi, các ông đã bỏ trốn tất cả! Ít ra gần như tất cả.

C – Ngày 14.11

Điều thánh Biển Đức sợ cho các anh em bệnh là sự thiếu nhẫn nại và chểnh mảng của những anh em chăm sóc họ. Ở câu 5 ngài nói: “Ta phải kiên nhẫn chịu đựng những anh em ấy”, và ở câu 10 ngài nhắc viện phụ “phải hết sức quan tâm kẻo quản lý hay những anh em phụ trách chểnh mảng việc chăm sóc bệnh nhân, vì chính ngài sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ thiếu sót nào của môn đệ”. Nhưng trong đoạn tu luật ngắn này, thánh Biển Đức còn đi xa hơn nữa khi ngài ấn định nguyên tắc hỗ trợ trong đời sống cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người đều có liên hệ và phải sẵn sàng, cần mẫn chu toàn bổn phận đối với bệnh nhân. Nhưng không phải vì thế mà viện phụ hết trách nhiệm, bởi lẽ ngài phải lo sao cho anh em thi hành đúng nhiệm vụ đã được trao.

Để được như vậy, thiết tưởng cần phải có hai điều kiện, như thánh Biển Đức nêu ra trong chương 36 này. Điều thứ nhất để áp dụng nguyên tắc hỗ trợ là kiểm tra, cùng với hệ quả là bá cáo về công tác đã thực hiện. Ở đây thánh Biển Đức đi ngược lại với cám dỗ muốn coi công việc được giao như việc riêng của mình, để mưu ích riêng và không coi anh em như người mình phải phục vụ nữa, nhưng như người phải lệ thuộc mình và mình có thể tỏ mặt khó chịu với họ. Dù mang nhiệm vụ nào đi nữa, mỗi người chúng ta đều có thể gặp cám dỗ này.

Điều kiện thứ hai đó là mọi công việc, mọi nhiệm vụ trong cộng đoàn đan tu đều phải nhắm tới một cùng đích là Chúa Kitô. Ta vào đan viện không phải để trồng cấy hay chăn nuôi, để có địa vị cao hay được nổi tiếng, để nắm quyền hành hay được mọi người suy phục, nhưng chỉ vì ta ước ao được “nhìn thấy Chúa”. Với thời gian, ta dễ quên đi điều cốt yếu để chỉ tìm kiếm cái phụ thuộc. Vào ngày sau hết, ta sẽ nghe lời Chúa Giêsu được thánh Biển Đức nhắc lại ở câu 3: “Điều gì các con làm cho một trong những kẻ bé mọn này là các con làm cho chính Ta”.

Chương 37

NGƯỜI GIÀ VÀ TRẺ EM

Ngày 16.3 – 16.7 – 15.11   

1 Mặc dù tự bản tính, người ta thường dễ thông cảm với người già và trẻ em, nhưng luật cũng phải dùng thẩm quyền của mình mà đối xử đặc biệt với họ nữa. 2 Phải luôn quan tâm tới sự yếu đuối của họ, đừng khắt khe với họ trong việc ăn uống; 3 trái lại, phải biết nhân nhượng và cho họ dùng bữa trước giờ đã định.

Chú giải:

A – Ngày 16.3

Một trong những hậu quả của não trạng dân chủ là sống theo nguyên tắc này: mọi người đều phải giữ luật như nhau. Hệ luận từ đó là nếu luật không thể giữ được bởi tất cả mọi người thì phải thay đổi. Thánh Biển Đức không hề nghĩ như vậy. Với ngài, luật là một cách sống, một nghệ thuật sống. Ta phải cố gắng sống theo nghệ thuật ấy, nhưng cũng cần lưu ý tới những ngoại lệ.

Đàng sau não trạng dân chủ mang tính thời đại này có ẩn dấu hai thực tại mà ta rất khó chấp nhận. Thứ nhất là sợ hãi và thứ hai là hậu quả do sợ hãi gây nên. Nỗi sợ tiềm ẩn sau chủ trương đồng đều ấy là sợ bị coi thường. Sự khác biệt làm ta sợ hãi. Nếu người khác làm được, thì sao tôi lại không? Phản xạ tiềm ẩn sau yêu sách này là phản xạ của một đứa trẻ ghen tương, và ngày nào đó ta đã là một đứa trẻ như vậy. Ta có khuynh hướng muốn giảm bớt luật đi, viện cớ là người khác không giữ được.

Hậu quả của khuynh hướng này là tương đối hóa lề luật, lấy lẽ là không phải ai cũng giữ được. Nhưng thánh Biển Đức lại hoàn toàn nghĩ khác. Với ngài, vấn đề không phải là tương đối hóa nhưng là nhân bản hóa, trong khi lưu tâm tới hoàn cảnh của từng người. Ngài không cho là phải giảm bớt luật để mọi người đều có thể giữ được cả, nhưng, như ngài nói ở một nơi khác, khích lệ người khỏe hơn tiến lên mà vẫn không làm người yếu hơn nản chí. Điều này đòi phải thực sự trưởng thành. Và chắc hẳn đó là vấn đề ta phải đặt ra cho mình trong tương quan với mọi thứ lề luật.

B – Ngày 16.7

Trong chương 37 này thánh Biển Đức không nói về sự khoan dung, nhưng về lòng nhân từ. Và ngài diễn tả những nét cốt yếu của lòng nhân từ ấy.

Với thánh Biển Đức, lòng nhân từ hệ tại mối quan tâm đến sự yếu đuối của người khác. Ở đây sự yếu đuối liên hệ đặc biệt tới tuổi tác (trẻ em hay người già), nhưng cũng có thể hiểu về những lãnh vực khác nữa. Ta có lòng nhân từ khi ta chấp nhận người khác không phải là ta, họ khác ta vì nhiều lý do. Như thế, khả năng có lòng nhân từ liên hệ mật thiết với kinh nghiệm về tính khác biệt.

Ta thường coi lòng nhân từ như một tình cảm yếu đuối vì sợ rằng khi tỏ lòng nhân từ ta sẽ khuyến khích chủ trương khoan hòa hay tính ghen tương. Và điều ấy rất có thể xẩy ra. Tuy nhiên, giải pháp không phải là từ chối thực hiện lòng nhân từ, nhưng là hướng dẫn anh em biết chấp nhận sự yếu đuối của người khác, bằng cách trước hết chấp nhận sự yếu đuối của mình, bằng cách không sợ những giới hạn của mình nữa, vì cho tới nay chính trong tình trạng yếu đuối của mình mà ta được Thiên Chúa yêu thương.

C – Ngày 15.11

Trong chương này, thánh Biển Đức không qui chiếu về Phúc Âm, như ở chương trên khi đề cập tới việc chăm sóc các anh em đau ốm, nhưng ngài nói đến tính tự nhiên. Theo tính tự nhiên, người ta dễ khoan dung với những người trẻ nhất cũng như những người già nhất. Người trẻ chưa đủ sức giữ luật, người già thì không còn sức nữa. Thánh Biển Đức muốn nhắc lại điều ấy. Tại sao vậy?

Đó là vì ta luôn luôn có khuynh hướng phán đoán xem cái gì có thể cái gì không theo như sức mình làm được. Một cách vô thức ta định mức giới hạn giữa cái có thể và cái không có thể tùy theo khả năng của ta. Ta tự coi mình như tiêu chuẩn sau cùng của mọi thứ mà chẳng hay biết. Trước thái độ này, thánh Biển Đức đề cao tính khách quan của tu luật và đặt ta vào một tương quan hoàn toàn khác đối với thực tại, nhưng cũng với tu luật nữa.

Vậy đâu là ý nghĩa của một tu luật không đòi phải tuân giữ trong mọi hoàn cảnh? Tu luật không phải là một bản điều lệ, nhưng nó còn muốn bao quát hơn nhiều, và chính vì thế nó luôn luôn giả thiết những nố trừ, như trong chương này. Tu luật muốn mở cho ta con đường dẫn tới Vương Quốc Thiên Chúa. Còn hơn là một bản nội qui, tu luật trình bày một khoa sư phạm giúp ta trở về với Thiên Chúa.

Vì vấn đề thực sự đối với ta chính là để cho ơn thánh hoạt động nơi ta, chứ không ngăn chặn bằng những ước muốn và dục vọng chất chứa trong lòng ta. Tu luật thực ra là trường tự do nội tâm, dần dần dạy ta nhường chỗ cho Thánh Thần, bằng cách giúp ta phân biệt ý riêng ta với ý Chúa. Dậy ta muốn điều Chúa muốn, đó là lý do tồn tại duy nhất của tu luật.

Chương 38

NGƯỜI ĐỌC SÁCH TRONG TUẦN

Ngày 17.3 – 17.7 – 16.11    

1 Trong khi anh em dùng bữa, đừng bao giờ bỏ đọc sách . Nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể cầm sách mà đọc, chỉ ai vào phiên từ ngày Chúa nhật mới đọc cả tuần. 2 Dự lễ và rước lễ xong, ai vào phiên sẽ xin mọi người cầu nguyện cho mình, để Chúa gìn giữ khỏi tính phô trương. 3 Phải xướng câu này ba lần trong nhà nguyện để mọi người lặp lại: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, để con cất tiếng ngợi khen Ngài”. 4 Và sau khi đã nhận phép lành, người ấy sẽ bắt đầu vào phiên đọc sách. 5 Tại bàn ăn, phải triệt để giữ thinh lặng, không ai được xì xào hay nói năng gì, ngoại trừ tiếng người đọc sách. 6 Anh em hãy chuyển cho nhau thức ăn thức uống cần thiết, đừng để ai phải xin gì. 7 Nhưng nếu cần gì, thì nên dùng dấu hiệu mà xin hơn là nói. 8 Đừng ai tự tiện hỏi về sách đọc hay bất cứ điều gì khác trong lúc đó kẻo sinh dịp không hay, 9 trừ khi bề trên muốn nói đôi lời xây dựng. 10 Vì đã giữ chay rước lễ, nên anh em phiên tuần có thể ăn chút ít trước khi đọc sách, sợ rằng vì giữ chay mà sinh mệt mỏi. 11 Sau đó, anh em ấy sẽ dùng bữa với người làm bếp và giúp bàn. 12 Đọc sách hay hát xướng không cần theo thứ tự, nhưng tùy theo ai có khả năng làm ích cho người nghe.

Chú giải:

A – Ngày 17.3

Ngày nay, từ “đọc” có ý nghĩa rõ rệt và nói đến nghệ thuật đọc sách. Từ này ở thời Thượng cổ có nghĩa rất khác, bao hàm cả việc góp nhặt, thu thập, lựa chọn. Khi nhớ rằng trong các thủ bản cổ mọi chữ đều dính liền nhau, không có khoảng cách, không chấm phẩy, ta mới hiểu đọc đòi phải có khả năng ghép các âm tiết lại thành một từ. Để đọc phải biết chọn lựa ra, trong những hàng dài các chữ viết liền nhau, những từ, những câu có ý nghĩa chính xác. Điều đó đòi phải có thói quen và phải hiểu biết ý nghĩa của bản văn.

Đọc là nghệ thuật làm nảy sinh ra ý nghĩa từ một khối chữ chưa được định hình. Với người xưa, đọc là một điều thật kỳ diệu. Chỉ cần nghĩ tới sức quyến rũ như mê hoặc mà các nhà nghiên cứu cảm thấy trước những cuốn sách cổ xưa, những bản văn bí ẩn hay những loại ngôn ngữ xa lạ. Trước một bản văn không thể hiểu được, con người như bị xâm nhập bởi một thứ sợ hãi thánh nào đó. Có điều gì quá sức họ, một lời vượt ngoài tầm tay và làm chủ trên họ.

Ta đã quá quen đọc những tấm bảng chỉ dẫn, những hướng dẫn sử dụng, những bản văn đủ loại đủ thứ, nên không còn ngạc nhiên trước những gì mình đọc nữa. Tuy nhiên ta vẫn thấy sợ hay ít ra thấy khó khăn trước một tấm bảng viết bằng ngoại ngữ mà ta chưa thông thạo hay một bản nhạc ta không biết xướng âm. Các bản dịch Thánh Kinh giúp ta tránh được cái bất tiện ấy mà đôi khi lại hữu ích để ta ý thức về mầu nhiệm của Lời Chúa.

B – Ngày 17.7

Lý do phải dùng dấu hiệu (c.7) là tôn trọng sự thinh lặng để có thể chăm chú lắng nghe mà không bị phân tâm chia trí. Ta đã biết những tiếng động không phải lúc làm xáo trộn việc nghỉ ngơi hay sự chú ý và tĩnh niệm, ở phòng đọc sách, phòng học hay những nơi khác. Với thánh Biển Đức, tiếng động hoặc những lời nói không đúng lúc sẽ làm xáo trộn hay phá hủy sự hiệp thông trong cộng đoàn.

Đó là một trong những ý nghĩa của thinh lặng đan tu và của dấu hiệu. Vấn đề ở đây là giao tiếp mà không gây phiền hà, không ép buộc người khác. Tôn trọng sự thinh lặng, dùng dấu hiệu là vì ta tôn trọng người khác và quan tâm đến họ, và cũng là để giúp ta thoát ra khỏi bản thân ích kỷ của mình.

Mọi qui luật trong đời sống đan tu đều được thiết định để duy trì hai yếu tố xem ra trái ngược nhau. Một đàng thánh Biển Đức muốn cổ võ sự tôn trọng và lắng nghe, đàng khác ngài khuyến khích phát huy sự hiệp thông và tình bác ái huynh đệ. Với ngài, không có lựa chọn một trong hai, vì cả hai đều quan trọng như nhau.

Suy nghĩ một chút ta sẽ thấy mọi thực hành nhỏ mọn trong đời đan tu, đôi khi làm ta khó chịu, đều nhắm theo hướng đó. Tất cả đều có mục đích cổ võ sự tôn trọng và tình hiệp thông: không nói ở những nơi chung để khỏi làm phiền người khác, nhưng chào nhau để tỏ tinh hiệp thông; không nói khi dùng bữa để nghe đọc sách, nhưng lại quan tâm đến người bên cạnh để họ không phải thiếu gì.

C – Ngày 16.11

Ta đã quá quen với nhà cơm của ta nên không để ý đến cái khác biệt với những phòng ăn khác, dù là phòng ăn gia đình hay phòng ăn tập thể. Hẳn ta còn nhớ giây phút ngỡ ngàng khi đi vào đó lần đầu tiên cùng với cộng đoàn. Những nét đặc thù của nhà cơm chúng ta cũng đều có nơi mọi đan viện từ nhiều thế kỷ nay.

Điều đáng chú ý trước hết là diện tích. Một diện tích rất lớn như không cần thiết đến vậy. Với dẫy bàn ăn xếp theo vành móng ngựa, khiến ta không bao giờ ngồi đối diện gần trước mặt nhau. Các cửa sổ thì ráp kính mờ hay ở rất cao. Ánh sáng chiếu vào được nhưng ta không nhìn ra ngoài được. Dường như cấu trúc cũng như cách bố trí của nhà cơm mang đến cho ta sứ điệp về sự tập trung và tĩnh niệm.

Khi đọc chương 38 trong bối cảnh này, ta sẽ hiểu một số điểm theo cách thức mới. Kiến trúc và cách bố trí các phòng ốc là để giúp ta có được kinh nghiệm nội tâm thích hợp. Bữa ăn không phải chỉ để cung cấp thức ăn cho ta sống, nhưng là thời gian thuận tiện ta ngồi lại để lắng nghe, tránh tất cả những gì làm ta phân tâm chia trí.

 Những cộng đoàn nào đã bỏ các hình thức bên ngoài đó để sắp xếp theo kiểu phòng ăn thông thường, lại dần dần trở về như trước kia. Quả thực, mối hiệp thông đan tu không được xây dựng trên tình bạn hữu, nhưng qua việc lắng nghe một Đấng Khác, lắng nghe một lời được trao tặng cho ta. Vì thế sách đọc nhà cơm phải được chọn lựa rất cẩn thận.

Chương 39

PHÂN LƯỢNG THỨC ĂN

Ngày 18.3 – 18.7 – 17.11    

1 Trong bữa ăn hằng ngày, vào giờ sáu hay giờ chín, cha thiết tưởng chỉ dọn hai món nấu chín là vừa, xét theo sự yếu đuối của mỗi người; 2 như thế, ai không dùng được món này thì dùng món kia. 3 Vậy hai món nấu chín là vừa cho anh em, nếu có hoa quả hoặc rau tươi có thể thêm món thứ ba. 4 Mỗi ngày một cân bánh là đủ, dù ăn một bữa hay hai bữa, trưa và tối. 5 Nếu có bữa tối, quản lý dành lại một phần ba cân bánh để dọn bữa tối. 6 Khi làm việc vất vả khác thường, viện phụ có thể thêm gì tùy ý, nếu xét là cần.7 Tuy nhiên, phải tránh thái quá, đừng để đan sĩ bội thực bao giờ, 8 vì không gì trái với tư cách Kitô hữu cho bằng ăn uống vô độ. 9 Như lời Chúa bảo: “Anh em hãy ý tứ đừng để lòng mình ra nặng nề bởi chè chén say sưa”. 10 Đối với trẻ em, đừng dọn cùng một phân lượng, nhưng ít hơn người lớn, để luôn giữ chừng mực trong mọi sự. 11 Mọi người phải tuyệt đối kiêng thịt loài bốn chân, ngoại trừ những người yếu đau kiệt sức.

Chú giải:

A – Ngày 18.3

Về thực phẩm, thánh Biển Đức đưa ra một qui luật rất hay. Nếu cần thêm món gì, thì chính viện phụ phải xem xét (c.6). Nếu cần lưu ý để khỏi ăn uống quá độ, thì đan sĩ phải quan tâm (c.7). Cách phân phối nhiệm vụ như thế giao cho mỗi người một trách nhiệm và cũng đặt ra cho mỗi người những giới hạn riêng.

Trước hết viện phụ phải quan tâm để anh em không thiếu gì cần thiết. Và tùy theo hoàn cảnh, nếu cần, ngài phải cho thêm món gì, khi anh em lao động vất vả hay lúc đau ốm bệnh hoạn. Điều ấy đòi viện phụ phải có hai đức tính cốt yếu: sự quan tâm và một đức tính nhân bản biết phân định đúng thời điểm và đúng tình huống.

Về phía anh em, điều đó đòi họ không được bận tâm tới đồ ăn, không tích trữ, không tự xin cho mình món gì thiếu. Chính qua những chuyện nhỏ nhặt này trong cuộc sống, nhất là về đồ ăn thức uống, mà ta ý thức được đức tin và lòng trông cậy của mình đã đặt tới mức độ nào. Khi thấy một anh em tích trữ thật nhiều đồ ăn, thì chắc hẳn ta cũng đoán biết được phần nào mức độ đức tin của anh ta.

Ngược lại, ta phải đề phòng cho khỏi sa vào thói háu ăn. Cách ăn uống ngấu nghiến có thể là dấu hiệu của một thiếu thốn khác, một ước muốn khác: thiếu thốn Thiên Chúa và ước muốn có được ngài. Điều nguy hiểm là nếu lại bù đắp cho cái thiếu thốn ấy bằng thức ăn, hay bằng cách tích trữ đủ mọi thứ đồ, ta sẽ bỏ quên ước muốn cốt yếu kia. Chính trong tình cảnh nghèo khó nơi sa mạc mà dân Israel đã gặp được Thiên Chúa. Nỗi nhớ nhung những nồi thịt bên Ai Cập chỉ làm cho họ có nguy cơ bỏ mất tiếng mời gọi tiến về ơn cứu độ mà thôi.

B – Ngày 18.7

Thánh Biển Đức tiên liệu về phân lượng các món ăn, và ngài cũng tiên liệu là có thể vượt quá phân lượng ấy trong một số trường hợp cần. Những khi ấy, viện phụ sẽ cho thêm món gì thích hợp. Ấn định nhỏ này xem ra chẳng có gì quan trọng, nhưng lại gói ghém tất cả tinh thần của thánh Biển Đức.

Tu luật đưa ra phân lượng chung, nhưng phân lượng này có thể được thích ứng tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, việc thích ứng không được theo hướng ngặt hơn. Nếu thánh Biển Đức cho viện phụ được quyền thích ứng thì luôn luôn là theo hướng giảm nhẹ. Viện phụ có thể cho nhiều hơn mức đã ấn định.

Nhưng điều đó phải áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể. Viện phụ phải phân định cho chính xác. Dung hòa giữa qui định của luật và nhận định cụ thể của viện phụ không phải là chuyện dễ dàng, cho viện phụ cũng như cho anh em. Mỗi người có cái nhìn riêng về sự cần thiết. Để tránh xung đột, thánh Biển Đức đã qui định một mức quân bình khôn ngoan.

Ngài qui định về dung lượng đồ ăn thức uống, về thời gian ngủ nghỉ, thinh lặng, làm việc, về tương quan với người khác. Nhưng ngài lại tiên liệu là viện phụ có thể tăng thêm hơn mức đã qui định.

C – Ngày 17.11    

Một lần nữa, trong chương 39 này, thánh Biển Đức dung hòa qui luật chung với sở thích cá nhân. Người làm bếp cứ theo luật chung mà dọn các món ăn. Nhưng đàng khác cũng phải tôn trọng nhu cầu của mỗi người. Thánh Biển Đức ấn định một số nguyên tắc đơn giản giúp ta dung hòa hai điều đó. 

Một số qui định có tính hạn chế: như không ăn thịt, hay trái lại tùy theo sở thích mỗi người: hai món nấu chín, “để ai không ăn được món này thì dùng món kia”, cũng có thêm “trái cây và rau sống”.

Lại có những qui định về số lượng: “đúng một cân bánh là đủ cho mỗi ngày”. Nhưng như thế thánh Biển Đức vẫn còn rộng rãi. Đúng một cân bánh có nghĩa là không được ít hơn mức đó. Đồng thời cũng phải tránh thái quá. Sau cùng viện phụ cứ việc thêm gì tùy hoàn cảnh đặc biệt, như khi phải làm việc vất vả hơn.

Tất cả những qui định đó cho thấy một bản liệt kê rất chặt chẽ về “chính sách nấu ăn của cộng đoàn”, có thể tóm tắt như sau: -chế độ ăn rau; -vừa đủ mức, chứ không thái quá; -có thay đổi cho hợp mọi sở thích; có tăng thêm trong những trường hợp đặc biệt. Thật đơn giản và rõ ràng, chẳng còn gì phải băn khoăn thắc mắc hay tùy hứng nữa.

Chương 40

PHÂN LƯỢNG THỨC UỐNG

Ngày 19.3 – 19.7 – 18.11   

1 Mỗi người được Chúa ban ơn riêng, kẻ thế này người thế nọ; 2 nên cha hơi ái ngại khi phải ấn định mức độ ăn uống cho kẻ khác. 3 Nhưng vì nhân nhượng cho những người yếu đuối, cha tưởng mỗi ngày một ly rượu cho mỗi người là vừa. 4 Còn những ai Chúa ban cho đủ sức kiêng cữ, thì hãy biết rằng mình sẽ được phần thưởng đặc biệt. 5 Nếu vì hoàn cảnh địa phương hay vì công việc nặng nhọc, hoặc vì thời tiết mùa hè nóng bức, cần dùng nhiều hơn, thì tùy bề trên định đoạt. Nhưng phải coi chừng kẻo dùng quá mức đến nỗi say sưa; 6 vì sách có câu: “Rượu không hợp với đan sĩ chút nào”. Nhưng vì không thể thuyết phục các đan sĩ thời nay xác tín điều ấy, nên ít ra phải quy định một điều là không nên uống thái quá, mà phải điều độ; 7 vì rượu cũng làm cho người khôn phản giáo được. 8 Nơi nào hoàn cảnh khó khăn không liệu được phân lượng nói trên, hoặc có ít hoặc không có chút nào, anh em nơi ấy hãy chúc tụng Chúa chứ đừng phàn nàn. 9 Điều cha khuyên nhủ trước hết là đừng bao giờ kêu ca phàn nàn.

Chú giải:

A – Ngày 19.3

Đối với thánh Biển Đức, mỗi người đều có một hồng ân đặc biệt, dù trong lãnh vực nào. Nhưng ngài lưu ý hai đặc tính cơ bản của mọi hồng ân. Thứ nhất, hồng ân ấy có tính cách cá nhân, hoàn toàn riêng biệt. Ta không thể và không được mong anh em ta cũng giống như ta, cũng có những khả năng như ta.

Đặc tính thứ hai là hồng ân được ban để ta phát huy và sử dụng mà sống ơn gọi của ta. Hồng ân cũng không chỉ dành cho lợi ích cá nhân, nhưng để phục vụ cộng đoàn và Giáo Hội. Nếu không, nó sẽ cằn cỗi, chẳng sinh kết quả gì.

Mọi hành trình thiêng liêng đòi phải có hai giai đoạn cơ bản. Trước hết, khám phá ra hồng ân đích thực của mình. Không phải hồng ân ta mong muốn, nhưng là do Chúa ban. Điều ấy không hiển nhiên thấy được, nhưng phải sáng suốt để nhìn cho ra và khiêm tốn chấp nhận.

Sau đó, mọi hồng ân đều phải được phát huy giá trị, phải được chăm bón để tăng thêm gấp mười, ba mươi, một trăm. Và chỉ hồng ân nào được trao đi, được chia sẻ mới thực sự là hồng ân. Hồng ân ta đón nhận luôn luôn là hồng ân để trao cho người khác, nếu không nó chẳng được ích gì. Hồng ân ta đón nhận càng được chia sẻ đi, càng ra khỏi tính ích kỷ của ta, sẽ càng làm cho cuộc sống ta nên phong phú. Vì lúc cho đi là lúc ta đón nhận, là lúc ta có thể thực sự trở nên chính mình.

B – Ngày 19.7

Cuộc sống con người liên tục dao động giữa thiếu thốn và dư thừa. Thiếu thốn, về vật chất, tình cảm hay tinh thần, khiến con người lo âu. Trái lại, dư thừa có thể tạo ra cảm giác chán ngán.

Trên đại dương đời đan tu thánh Biển Đức muốn hướng dẫn con tầu của đan sĩ đi giữa hai tảng đá ngầm này. Để mình lo âu vì thiếu thốn hay chán ngán vì dư thừa sẽ có nguy cơ rơi vào tật phàn nàn kêu trách, hoặc là thái quá và say sưa. Cuộc đời đan tu trải qua giữa hai thái cực này, và đôi khi người ta nghĩ rằng đó chỉ là một cuộc sống theo con đường trung dung.

Mà trung dung thì bị lầm tưởng là giống với thờ ơ nguội lạnh, điều mà sách Khải Huyền nói Chúa sẽ mửa ra. Vậy đâu là con đường dẫn ta tránh những thái quá mà lại không rơi vào tật thờ ơ nguội lạnh của những người chỉ biết sống để lo cho bản thân mình?

Đời đan tu chẳng có gì giống với cuộc sống thờ ơ trong đó người ta chỉ tìm cách phòng thân, bảo vệ những gì mình có được. Trái lại, đời đan tu đòi hỏi ta trao phó mình trong tay Thiên Chúa, đấng điều khiển cuộc đời ta. Đó là điều thánh Biển Đức quả quyết ngay từ đầu chương này. Ngài nói về một ơn mà mỗi người lãnh nhận từ nơi Chúa (c.1), và được đặt dưới sự chăm chú theo dõi của một người khác, của viện phụ (c.5). Điều quan trọng là thay đổi cách thức đi từ mình tới người khác, từ tôi tới Chúa. Bước đi này chỉ thực hiện được khi ta từ chối tự hướng dẫn đời mình.  

C – Ngày 18.11                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            

“Đừng phàn nàn kêu trách”, đó là một trong những qui luật cơ bản của đời sống đan tu. Trong chương 40 này, qui luật ấy áp dụng cho những nơi không kiếm ra rượu, nhưng thánh Biển Đức cũng nhắc lại ở nhiều trường hợp khác nữa. Thực vậy, ta có thể kêu ca trách móc vì nhiều lý do: vì những hoàn cảnh, những biến cố, vì anh em hay bề trên, vì chính mình và những giới hạn của mình.

Như vậy, kêu ca trách móc là dấu hiệu bên ngoài của một sự từ chối có tính cách trầm trọng hơn nhiều. Ta luôn luôn không hài lòng về một điều gì, về một ai, hay cả về chính mình, vì ta không biết chấp nhận những giới hạn của cuộc đời, vì xét cho cùng ta muốn là tất cả, và thế là bế tắc!

Đây không phải là vấn đề đạo đức, thiếu khiêm nhường, hay dấu hiệu của kiêu căng. Vì thực ra một ngày nào đó tất cả chúng ta đều phải đi qua cửa hẹp này, qua con đường gồ ghề này, và phải chấp nhận vất bỏ đi những ảo tưởng, những mơ mộng mới có thể đi qua được. Đó là kinh nghiệm mà một lúc nào đó trong cuộc đời ta sẽ phải trải qua.

Kinh nghiệm này có hai mặt. Trước hết là mặt tiêu cực, vì ta cảm thấy hoàn toàn bất lực. Không thể làm gì hơn được nữa. Nhưng cũng có mặt tích cực, vì khi ta lâm cảnh bất lực thì Thiên Chúa đến. Chính khi đó ngài sẽ dẫn ta đi, dù ta chẳng thực sự có ý thức gì về con đường phải đi. Ta thấy mình ở bên kia bức tường mà chẳng hay biết ngài dẫn ta qua đấy bằng lối nào. Ta cảm thấy được cứu thoát. Nhưng đấy chưa phải là kinh nghiệm sau hết trong đời. Sẽ luôn luôn có những ngưỡng cửa mới phải bước qua, mãi cho tới ngưỡng cửa sau cùng, là sự chết, mà chỉ một mình ngài mới dẫn ta qua được.

Chương 41

ANH EM DÙNG BỮA VÀO GIỜ NÀO ?

Ngày 20.3 – 20.7 – 19.11

1 Từ lễ Phục Sinh đến lễ Hiện Xuống, anh em dùng bữa trưa vào giờ thứ sáu và bữa tối vào ban chiều. 2 Từ lễ Hiện Xuống và suốt cả mùa hè, nếu anh em không phải làm việc ngoài đồng, hoặc khí trời không quá nóng bức, thì ngày thứ tư và thứ sáu anh em giữ chay cho đến giờ thứ chín. 3 Còn những ngày khác anh em dùng cơm trưa vào giờ thứ sáu. 4 Nếu phải làm việc ngoài đồng hoặc vì mùa hè quá nóng nực, anh em dùng bữa vào giờ thứ sáu, tùy theo viện phụ ấn định. 5 Ngài hãy điều hoà xếp đặt mọi sự thế nào cho các linh hồn được cứu độ, và cho anh em chu toàn bổn phận mà không phàn nàn kêu ca. 6 Từ mười bốn tháng chín đến đầu mùa chay, anh em dùng bữa vào giờ thứ chín. 7 Trong suốt mùa chay đến lễ Phục Sinh sẽ dùng bữa sau Kinh Chiều. 8 Phải sắp xếp giờ Kinh Chiều thế nào để khi dùng bữa không phải thắp đèn, nhưng mọi sự phải xong khi trời còn sáng. 9 Vả lại, mùa nào cũng thế, dù có bữa tối hay chỉ có bữa trưa, phải liệu sao để có thể dùng bữa khi trời còn sáng.

Chú giải:

A – Ngày 20.3

Thánh Biển Đức yêu cầu “viện phụ hãy điều hòa và xếp đặt mọi sự sao cho linh hồn anh em được cứu độ” (c.5). Ơn cứu độ các linh hồn là ưu tiên trên mọi ưu tiên, là lý do duy nhất cho sự hiện hữu của đan viện, cũng như của Giáo Hội và thế giới. Ơn cứu độ của ta là điều Thiên Chúa đặc biệt quan tâm. Mọi sự đều hiện hữu, đều được xếp đặt nhằm cứu rỗi các linh hồn.

Bản thân tôi, một trong những khám phá lớn tôi đã có trong thời gian tập đó là khám phá ra nhu cầu cần được cứu rỗi. Trước đó, tất cả chỉ là lý thuyết, chỉ là những suy tư triết học. Tôi cũng nói đến nhu cầu được cứu rỗi mà chẳng hiểu cho lắm cứu rỗi là gì. Cho tới một ngày tôi ý thức được tất cả những gì là ghen ghét, bạo lực, gian dối nơi bản thân tôi. Và tôi nhớ rằng lúc ấy tự nhiên tôi thốt lên lời cầu khẩn này: Lạy Chúa, xin cứu con khỏi chính mình con!

Cho tới lúc ấy, tôi cứ lẩn quẩn với ý tưởng sai lầm rằng những người khác mới cần hoán cải, chính họ mới phải đổi thay. Vì thế, kinh nghiệm về điều dữ ở trong ta, điều mà ông Giuđa đã không thể nhìn thẳng vào, điều mà ông Phêrô đã đau đớn chấp nhận, là một kinh nghiệm cơ bản, cần thiết cho mọi cuộc sống đan tu.

Bao lâu chưa có kinh nghiệm từ thâm cung lòng mình về sự cứu rỗi, ta không thể thực sự đi vào mầu nhiệm đời đan tu. Ta đổ lỗi cho người khác, cho cộng đoàn, cho xã hội, cho thời thế, nhưng ta lại chẳng nhìn ra vấn đề. Ý thức về tội lỗi mình là mở cửa tâm hồn đón nhận ơn thánh. Khi ấy mọi sự đều có thể làm được, mọi sự đều có khả năng thay đổi. Ta có thể bắt đầu thở bằng hai lá phổi của tâm hồn.

B – Ngày 20.7

Bất kể vì công việc nặng nhọc, thời tiết nóng bức hay vì ánh sáng, điều quan trọng đối với thánh Biển Đức là để ý tới thực tại. Ánh sáng điện, nước máy, hệ thống sưởi đã làm ta quên mất những thực tại rất đơn giản đó. Ở những thời đại trước người ta ít bận tâm tới những điều kiện cụ thể của cuộc sống. Nhưng phải chăng vì thế mà người ta không phàn nàn kêu ca? Không chắc như vậy.

Phàn nàn kêu ca vẫn là một trong những đặc tính phổ thông nhất của con người. Người ta kêu ca vì trời nắng trời mưa, vì nóng vì lạnh, vì việc làm hay vì thất nghiệp. Tóm lại, ta là những bậc thầy trong nghệ thuật than phiền, trách móc, kêu ca.

Thật là vui khi thấy báo chí cứ nói hết chuyện tai họa vì hạn hán rồi tới nạn khan hiếm nước trên toàn cầu! Tóm lại, ta có nhu cầu bi thảm hóa mọi sự, có nhu cầu luôn luôn than phiền. Hẳn là để có cảm tưởng rằng mình đã làm cho cuộc đời mình nổi lên được một chút.

Đón lấy cuộc đời như nó đến với ta, tiếp nhận những gì Chúa ban, rồi dâng lời cảm tạ không phải là những chuyện đơn giản và ai cũng làm được. Cần phải lâu dài trong nhiều năm mới học biết bằng lòng, bằng lòng cách thật đơn giản với những gì hiện có, chứ không phàn nàn kêu trách nữa. Sống đơn giản, khiêm tốn, hạnh phúc, thật khó biết bao.

C – Ngày 19.11

Thánh Biển Đức xếp đặt thời gian dùng bữa tùy theo một số điều kiện khách quan. Thức ăn phải giúp cho đan sĩ có đủ sức chu toàn nhiệm vụ hằng ngày (ở đây là những công việc ngoài đồng) và chịu đựng được với những thời tiết đặc biệt (ở đây là sự nóng nực mùa hè). Nếu áp dụng luật mà không để ý tới những thay đổi về thời tiết sẽ dễ sinh ra kêu ca trách móc.

Như ở chương trên, ở đây ta lại gặp chuyện “kêu ca trách móc” về thức uống. Thánh Antôn đã nói sự bình an trong cộng đoàn nằm ở dưới đáy nồi. Phải chân nhận rằng những điều kiện vật chất có ảnh hưởng lớn đối với sự bình an của một cộng đoàn. Khi thiếu cái gì cần thiết, hay khi đồ ăn không ngon sẽ dễ nảy sinh bất mãn.

Mối liên hệ ấy thánh Biển Đức đã lưu ý trong tu luật của ngài. Ta không phải là thuần thiêng nên cần tôn trọng qui luật cơ bản ấy nơi những con người có xác thịt. Nhưng không phải ai cũng thấy được như thế. Tập cho biết thư giãn, biết tôn trọng những nhu cầu của thân xác mình mà không rơi vào thói ẻo lả hay phù phiếm không phải là chuyện dễ.

Thực vậy, điều kiện sống thay đổi, nhu cầu mỗi ngày mỗi tăng. Những điều hay điều tốt và quân bình cách đây hai mươi năm, ngày nay không nhất thiết còn như vậy nữa. Tất cả những chuyện đó là quan trọng, nhưng lại tùy phụ. Và cái tùy phụ không bao giờ được làm xáo trộn việc tìm kiếm điều cốt yếu. Giữ lại những gì đã có sẵn thường thì dễ hơn, và khỏi mất công suy nghĩ. Kêu ca trách móc thì dễ hơn tìm kiếm, đề nghị, phát minh, xây dựng.

Chương 42

KHÔNG AI ĐƯỢC NÓI SAU GIỜ KINH TỐI

Ngày 21.3 – 21.7 – 20.11   

1 Lúc nào đan sĩ cũng phải chuyên tâm giữ thinh lặng, nhất là ban đêm. 2 Vì thế bất luận ngày nào, dù ngày giữ chay hay ngày có ăn trưa, 3 nếu vào ngày có ăn trưa, thì liền sau bữa tối, anh em qui tụ lại một nơi, rồi một anh em sẽ đọc các bài giáo thuyết hay hạnh tích các tổ phụ hoặc một sách gì khác xây dựng cho người nghe. 4 Nhưng đừng đọc bộ Ngũ Kinh hay sách Các Vua, vì phần Thánh Kinh ấy không bổ ích cho những anh em kém trí. Hãy đọc những sách ấy vào giờ khác. 5 Nếu là ngày giữ chay, sau Kinh Chiều, anh em có giờ rảnh, rồi hãy mau mắn hội lại nghe sách như nói trên: 6 đọc chừng bốn năm trang hay nhiều ít tùy thời gian cho phép. 7 Trong giờ đọc sách này, anh em phải mau mắn tụ tập đông đủ, kể cả những ai đang mắc công tác được ủy nhiệm. 8 Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, sẽ đọc Kinh Tối. Sau giờ Kinh Tối, không ai được nói năng gì nữa. 9 Nếu ai lỗi luật thinh lặng này sẽ bị nghiêm phạt, 10 trừ trường hợp phải tiếp khách hoặc viện phụ muốn truyền bảo ai điều gì. 11 Nhưng cả trong trường hợp đó cũng phải hết sức nghiêm trang và thận trọng.

Chú giải:

A – Ngày 21.3

Để có thể lắng nghe các vì sao, các nhà thiên văn cần loại bỏ hết mọi tạp âm. Họ cần có khả năng thinh lặng để đôi tai viễn vọng kính của họ có thể nghe được bài ca của vũ trụ. Thiết tưởng hình ảnh này có thể giúp ta hiểu được tầm quan trọng và sự cần thiết của thinh lặng trong đời sống đan tu. Như những kính viễn vọng tìm hiểu ý nghĩa ngôn ngữ của vũ trụ, thì ơn gọi của ta là lắng nghe, là ghé tai lòng nghe giai điệu thần linh.

Thinh lặng là một trong những yếu tố nòng cốt của cái gọi được là sinh thái học đan tu. Không có thinh lặng, vũ trụ ta sẽ đầy dẫy những tạp âm, và ta sẽ chẳng còn nghe được gì nữa.

Thiết nghĩ hình ảnh những kính viễn vọng của các nhà thiên văn có thể giúp ta khám phá một số đặc điểm của thinh lặng: -Để tránh mọi tạp âm, viễn vọng kính thường được đặt trong sa mạc, nơi mà không khí rất trong và sinh hoạt của con người không đến làm xao động việc lắng nghe. -Để nghe thấy được một âm thanh hầu như không thể nhận ra, viễn vọng kính càng ngày càng lớn, như những đôi tai khổng lồ quay về phía bầu trời. -Sau cùng, viễn vọng kính luôn hướng lên cao.

Những kết quả mà viễn vọng kính giúp thu thập được tùy thuộc vào việc tôn trọng các điều kiện đó. Nếu không, rất có thể ta sẽ lẫn lộn Lời Chúa với những tiếng ồn ào của thế gian.

B – Ngày 21.7

Theo thánh Biển Đức, thinh lặng gắn liền với lắng nghe lời. Trước hết là Lời bên ngoài. Nhưng cũng lắng nghe Lời nội tâm mà Lời bên ngoài gợi lên trong lòng ta. Lời bên ngoài đụng vào tai thân xác ta để Lời nội tâm có thể được tai lòng ta đón nhận.

Chắc hẳn ban đêm là lúc thuận tiện hơn cả để Lời bên ngoài có thể gợi lên bên tai lòng một Lời khác, tức là Lời nội tâm. Như vậy, thinh lặng không phải chỉ để thinh lặng, nhưng để mở lòng ra cho Đấng Khác, đấng “không kêu la nơi công trường, không lên tiếng”.

Yêu quí thinh lặng liên kết chặt chẽ với yêu quí Lời. Như ta đã thấy, Lời là hình thức hiện diện đầu tiên của Chúa Kitô. Nhưng để nhận ra tiếng chân Đấng yêu dấu, để thấy được bàn tay ngài luồn qua cánh cửa, thì còn cần phải chăm chú, phải rình chờ.

Nếu lòng yêu quí thinh lặng liên kết chặt chẽ với lòng yêu quí Lời, thì lòng yêu quí Lời sẽ gia tăng lòng yêu quí thinh lặng. Vì thinh lặng không phải là trống rỗng, nhưng là một Lời vượt trên mọi lời. Một Lời mà ta cần phải học để lắng nghe.

C – Ngày 20.11

Với thánh Biển Đức, im lặng không phải chỉ là không nói. Vì thế ngài khuyến dụ đừng đọc một số sách trong bộ Thánh Kinh vào ban tối. Có thể ta sẽ ngạc nhiên trước lời khuyên này nếu chưa có kinh nghiệm về tác động của những câu truyện và hình ảnh trên tư tưởng của ta.

Vì hiển nhiên là khi đầu óc ta chất chứa càng nhiều hình ảnh và càng nhiều những câu truyện thì trí tưởng tượng của ta càng bị ảnh hưởng. Khi sống ngoài đan viện ta bị đủ mọi thứ hình ảnh tấn công tới độ chẳng muốn nhìn nữa, trái lại, trong đan viện mọi thứ đều gây ấn tượng một cách đáng ngạc nhiên.

Lời khuyến dụ thường có hiệu quả khiến ta trở nên nhậy bén hơn, tỉnh táo hơn và có vẻ dòn mỏng hơn. Khi vào sa mạc không những ta thấy đầu óc mình đầy những chuyện vô ích cản trở ta đạt tới an bình nội tâm, nhưng cũng thấy mình hết sức nhạy cảm với những thứ đó.

Khả năng thụ cảm lớn hơn, sức chú ý mạnh hơn, chính là hoa trái thánh Biển Đức tìm kiếm. Đó là mục đích của im lặng: mở tai lòng để lắng nghe Chúa. Nhưng sự nhạy cảm hơn này có những bất tiện. Điều mà trước kia chẳng sao cả lại đụng chạm tới ta nhiều hơn, làm ta bị tổn thương và đôi khi theo đuổi ta nữa. Đó là cái giá của mọi cuộc thanh tẩy. Đó là khi trời trong xanh hơn ta sẽ nhận thấy rõ hơn từng đám mây trắng bay qua.

Chương 43

GIỜ THẦN VỤ VÀ GIỜ ĂN

Ngày 22.3 – 22.7 – 21.11      

1 Tới giờ Thần Vụ, vừa nghe hiệu báo, ai nấy phải bỏ ngay những gì đang cầm trong tay và nhanh chân đến dự. 2 Tuy nhiên vẫn phải nghiêm trang để khỏi sinh dịp chia trí. 3 Đừng lấy gì làm hơn việc Chúa. 4 Trong giờ Kinh Đêm ai đến sau Vinh Danh của Thánh Vịnh 94 thì không được vào chỗ mình trong ca toà, vì thế cha muốn Thánh Vịnh này được đọc thong thả, 5 nhưng phải đứng chỗ cuối cùng hoặc nơi nào viện phụ đã chỉ định cho hạng người chậm trễ như vậy, để ngài và mọi người trông thấy. 6 Cuối giờ Thần Vụ, người ấy phải công khai làm việc đền tội. 7 Cha bắt phải đứng chỗ cuối cùng hay nơi riêng như thế để mọi người trông thấy, khiến phải xấu hổ mà sửa mình. 8 Còn nếu để họ ở ngoài nhà nguyện, thì có kẻ sẽ về ngủ hoặc trò chuyện vớ vẩn sinh dịp cho ma quỷ; 9 thà cho vào nhà nguyện, vừa giữ được giờ kinh, vừa có dịp sửa mình. 10 Trong các giờ kinh ban ngày, ai đến sau câu xướng và sau Vinh Danh của Thánh Vịnh thứ nhất, sẽ phải đứng vào chỗ cuối cùng như đã nói trên, 11 không được hát Thánh Vịnh cùng với anh em cho đến khi đền tội xong, trừ khi viện phụ tha lỗi và cho phép. 12 Nhưng dù sao người ấy cũng phải đền tội.

Chú giải:

A – Ngày 22.3

Trong mọi cộng đoàn đan viện đều có những anh em đến chậm giờ kinh. Điều đó hẳn là phải có cả một nghệ thuật, nghệ thuật đến chậm. Nghệ thuật ấy lại càng tinh tế hơn và đòi phải tập luyện kỹ hơn khi đến chậm vào phút chót. Chẳng cần nói thì những chuyên viên đến chậm như thế ai cũng có thể thấy được cả. Đó là một sự kiện quá nhãn tiền.

Có một cách chậm trễ khác, tinh vi hơn nhiều và con mắt không thể nhìn thấy được. Đó là bỏ lỡ mất giờ Chúa đến trong cuộc sống của ta. Có thể ta rất đúng giờ, không khi nào chậm giờ chung, những vẫn bị chậm trễ khi Chúa đến.

Thực vậy, suốt ngày sống, Chúa gửi đến cho ta những sứ điệp bằng Lời ngài, trong Thánh Vịnh, trong các biến cố, các cuộc gặp gỡ. Ngài dựng các bảng chỉ đường để dẫn lối cho ta đi, hoặc cho ta cảm thấy mình đang đi trên lối sai lầm đưa ta lạc xa ngài. Cái chậm trễ, cái cứng lòng, cái mù quáng này còn nặng hơn việc đến chậm giờ kinh nhiều.

Tuy nhiên, cả hai trường hợp, chậm trễ bên ngoài hay chậm trễ nội tâm, đều có một nguyên nhân. Đó là không sống theo điều mà thánh Biển Đức nói trong câu 3 của chương 43 này: “Không lấy gì làm hơn việc phụng sự Chúa”. Vì, nếu ta đến chậm giờ kinh, nếu ta bỏ lỡ cái nhìn của Chúa trong cuộc sống hằng ngày, chính là vì ta đã muốn bận tâm đến mình trước hết. Hay nói đúng ra là bận tâm đến cái dáng vẻ bên ngoài mà ta gọi là cái “tôi”, và đó chỉ là bức biếm họa mờ nhạt về hữu thể thật của mình.

B – Ngày 22.7

Mau mắn hay mau lẹ (“cum festinatione”) đối với thánh Biển Đức đó là thái độ nổi bật của đan sĩ khi nghe tiếng chuông báo giờ thần vụ. Thánh Biển Đức không có ý so sánh đan sĩ với những tay đua xe đạp, đặc biệt như giải “Tour de France”, một loại hình thể thao chưa được tổ chức vào thời ngài. Nhưng ta vẫn có thể nghĩ tới cách so sánh này, vì ngay chính thánh Phaolô cũng đã so sánh kitô hữu với một lực sĩ chạy đua để đoạt giải.

Như trong đời sống đan tu, trong các cuộc đua xe đạp có những người đua đơn lẻ và có những người đua theo nhóm. Những người đua theo nhóm thay nhau giữ nhịp độ cho cuộc đua, mỗi người theo phiên mình vượt lên hàng đầu để lôi cuốn những người khác rồi lại trở về chỗ mình. Những ai đã có dịp thấy cảnh này đều ngạc nhiên vì sự gắng sức lâu dài của nhóm đua có vẻ như thật dễ dàng. Thực ra thì mọi sự đều được tính toán, cân nhắc nhằm hiệu quả tốt nhất để đoạt giải. Tất cả sẽ bị rối loạn nếu một người nào trong nhóm khi tới phiên mình mà không vượt lên, và do đó cả nhóm sẽ có nguy cơ thất bại.

Thánh Phaolô nói rằng tất cả sự gắng sức lớn lao đó cũng chỉ là để đoạt được phần thưởng mau qua, còn ta, ta chạy là để được phần thưởng vô cùng quí giá hơn. Sự mau lẹ của đan sĩ chính là lòng khao khát, không phải khao khát giầu có, thành công, quyền lực nhưng là khao khát Chúa. Điều thôi thúc đan sĩ, điều lôi kéo họ vào nhà thờ bảy lần mỗi ngày, điều khiến họ ham thích trở lại đó nhiều lần hơn, dù chỉ trong chốc lát, chính là lòng khao khát Chúa. Lòng khao khát phần nào giống như lò lửa: nếu thêm củi vào, lò sẽ cháy mãi, nếu để tàn đi lò sẽ thành đống tro nguội.

C – Ngày 21.11

Mỗi người có khả năng riêng, mỗi người có đặc điểm riêng. Có những người “luôn luôn đến trước”, và có những người “luôn luôn đến sau”. Tôi nhớ tại một trong các nhà con của chúng ta, có anh em kia kể với tôi rằng một lần người anh em chuyên môn đến chậm giờ kinh đã vô tình đến sớm. Thế là anh bỏ đi ra để khỏi mất danh tiếng là người chuyên đến chậm.

Đàng sau những hành động khiến ta bật cười và đôi khi khó chịu ấy, là cả một ngôn ngữ, một cách truyền đạt điều gì đó. Phần tôi, đến chậm khiến tôi hầu như phát bệnh, cũng như tới đúng giờ đối với một số người khác. Điều này hẳn là do giáo dục, do nhu cầu phải tương ứng với một vai trò, một nhân vật. Tóm lại, đó là một cách hiện hữu, trước mắt người khác và trước mắt mình.

Phải chăng thánh Biển Đức muốn nói tới điều đó? Không phải chỉ thế thôi, vì chậm trễ chỉ là một trong nhiều triệu chứng. Điều thánh Biển Đức nhắm tới là sự chểnh mảng, buông xuôi, lười biếng. Mà chểnh mảng thì tất cả chúng ta đều có thể mắc phải.

Chểnh mảng không là gì khác hơn là nhẹ dạ, một cách sống thiếu chiều sâu, thiếu cô đọng. Hời hợt cho qua. Đó là điều trái ngược với đời sống đan tu nơi con người được gọi đến để sinh ra cho chính mình, thay vì tan biến đi trong những chuyện vô ích. Thường thì phải dựa theo nhiều triệu chứng mới tìm ra được một căn bệnh. Công việc của thầy thuốc thiêng liêng là phân định ý nghĩa của những triệu chứng ấy.

Ngày 23.3 – 23.7 – 22.11

13 Giờ ăn, ai không đến trước câu xướng để cùng đọc câu ấy với lời nguyện rồi cùng ngồi vào bàn, 14 nếu vì ươn lười hay thói quen chậm trễ, sẽ bị khiển trách đến hai lần, 15 nếu sau đó vẫn không sửa mình, thì đừng cho ăn chung nữa, 16 phải ăn riêng một mình và mất phần rượu cho đến khi đã đền tội và tu sửa. 17 Ai vắng mặt lúc đọc câu kết sau bữa ăn cũng bị phạt. 18 Không ai được ăn uống gì ngoài giờ luật định, 19 nếu bề trên có cho ai của gì mà người ấy không nhận, sau lại ước muốn điều mình đã từ chối hay thứ gì khác thì đừng cho gì cả, tới khi đã đền tội xứng đáng.

Chú giải:

A – Ngày 23.3

Đối với thánh Biển Đức, bữa ăn chung giữ một trong những vai trò cốt yếu của cấu trúc đời sống cộng đoàn. Đến chậm giờ cơm, nhất là khi đã thành thói quen, là gây thiệt hại cho mỗi thành viên trong cộng đoàn, vì như thế là làm thương tổn sự hiệp nhất được biệu lộ cách đặc biệt bằng việc tham dự bữa ăn chung. Trong quan niệm của thánh Biển Đức về đời sống cộng đoàn thì đó là điều hiển nhiên.

Nhưng ngày nay trong các gia đình, điều đó không còn thịnh hành nữa. Trừ những dịp đặc biệt hay những bữa ăn trọng thể, thì mỗi người tự lấy thức ăn đã dọn sẵn mang đi ăn trong khi vẫn tiếp tục công việc. Xét cho cùng, bữa ăn biểu lộ sự quân bình giữa chiều kích cộng đoàn và chiều kích cá nhân trong cuộc sống. Và sự quân bình này thay đổi tùy theo thời đại.

Hiện nay việc tham dự bữa ăn chung có uyển chuyển tùy theo các cộng đoàn. Nơi một số đan viện, như Hauterive, mọi bữa ăn đều dùng chung và có đọc sách, ngay cả bữa điểm tâm sáng. Trái lại, ở một số cộng đoàn khác chỉ bữa trưa là ăn chung, như ở Tamié hay Sept-Font. Ở Oka, bên Canada, vì anh em tự đi lấy đồ ăn ở nơi dọn sẵn, nên khi đa số đã mang đồ ăn về chỗ mới bắt đầu đọc sách.

Tất cả những cách thức trên đây đều góp phần vào thế quân bình của cuộc sống riêng cho mỗi đan viện. Nơi đâu anh em sống gần gũi nhau hơn, thì người ta thích tự mình đi lấy đồ ăn. Nơi nào đời sống cộng đoàn ít nổi bật vì lẽ các phòng xa cách nhau, người ta lại thích thú có mặt với nhau cả ba bữa ăn. Điều quan trọng không phải là theo kiểu nào, nhưng là sự quân bình tinh tế ấy giúp ta sống được cách hài hòa mối hiệp thông và sự cô tịch. Vì ta cần đến hai chiều kích này để cuộc sống được triển nở trong cầu nguyện.

B – Ngày 23.7

Với thánh Biển Đức, thói chậm trễ (như ngài nói ở câu 14) có liên quan thầm kín với tính tự phụ, kiêu căng (c.18 và 19). Ta đã thấy có thứ chậm trễ bên ngoài và có thứ chậm trễ nội tâm. Đó là không nghe theo tiếng chuông mời gọi đi phụng sự Chúa và đi dùng bữa, hoặc không nghe theo Lời Chúa trong nội tâm mời gọi ta hoán cải.

Đối với Cassianô, tự phụ, kiêu căng làm cho con mắt tâm hồn ra mù quáng, khiến ta từ chối nghe Lời và để cho Lời lắng đọng sâu vào lòng ta. Ta vẫn đọc một câu thật hay của Thánh Vịnh 18 diễn tả ngược lại điều đó cách rất chính xác: “Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 18,9). Lời giúp ta nhìn thấy rõ được.

“Chúng có mắt mà không thấy, có tai mà chẳng nghe”. Lời các tiên tri khiển trách dân Israel xưa kia Chúa Giêsu cũng nói lại với những người cứng lòng tới độ không còn nhận ra được Thiên Chúa đang đến trong cuộc đời mình. Nhưng phải chiến đấu lâu dài mới có thể ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa, mới có khả năng nghe được tiếng ngài, dịu dàng như hơi gió thoảng.

Quả thực, nếu cứ làm ngơ, nếu cứ bưng tai trước những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống, trước ngàn lẻ một lời mời gọi âm thầm Chúa ngỏ với ta suốt cả ngày, rất có thể ta sẽ chẳng nghe thấy được hơi gió nhẹ nhàng khi Chúa đến. Co cụm lại nơi mình, ta chỉ còn nghe được mình, chỉ nghĩ đến mình, sau cùng là hoàn toàn bị giam hãm nơi bản thân. Đó là cảnh ngục tù do kiêu căng tự phụ.

C – Ngày 22.11

Cho gì nhận nấy. Đó là một trong những cách ứng xử quan trọng nhất của đời người. Ta thường tìm kiếm những gì mình không có, mơ ước những cái không thể đạt tới được, mà lại không có khả năng đón nhận cái được ban cho. Đúng vậy. Nhưng ta có thể lý luận rằng tiến bộ của con người, về vật chất, trí tuệ, tâm lý hay tinh thần đều là kết quả của niềm khát vọng luôn luôn thúc đẩy ta tìm kiếm cái ta không có. Và theo nghĩa này, khát vọng ấy là thành phần bản tính nhân loại của ta.

Đó là động lực khiến ta có thể không bao giờ bằng lòng với cái mình có, với cái mình biết, với hiện trạng của mình. Trong ta có một sức mạnh bất khả kháng luôn luôn đẩy ta tới cái hơn, cái mới. Bằng lòng với cái hiện có xem ra gần như là phản bội tài năng Chúa ban để ta làm cho trổ sinh hoa trái.

Vậy phải chăng thánh Biển Đức lên án điều đó? Phải chăng ngài muốn kìm hãm động lực ấy nơi con người? Chắc chắn là không! Điều ngài muốn khích lệ ta không phải là sống thụ động, nhưng là dâng lời tạ ơn. Tiến bộ, tìm cái tốt hơn, đào sâu mãi không ngừng, được lắm! Tuy nhiên vẫn không quên tạ ơn về những gì ta đã nhận được. Thánh Biển Đức mời gọi ta trau dồi lòng biết ơn và sự thán phục. Đó là tất cả ý nghĩa của thông điệp này: tạ ơn về điều đã có để có thể tiến đến nơi Thiên Chúa mời gọi ta!

Chương 44

NHỮNG NGƯỜI BỊ TUYỆT THÔNG

PHẢI ĐỀN TỘI THẾ NÀO?

Ngày 24.3 – 24.7 – 23.11   

1 Ai vì lỗi nặng mà bị tuyệt thông nơi nhà nguyện và nhà cơm, phải lặng lẽ phủ phục trước cửa nhà nguyện trong khi anh em cử hành Thần Vụ, 2 và cứ nằm dài sấp mặt xuống đất dưới chân mọi người khi anh em đi ra khỏi nhà nguyện; 3 và làm như thế cho tới khi viện phụ xét là đã đền tội đủ. 4 Khi viện phụ bảo, người ấy phải đến phục dưới chân ngài và anh em để mọi người cầu nguyện cho. 5 Bấy giờ nếu viện phụ bảo, người ấy mới được tái nhập ca toà theo thứ tự ngài chỉ định, 6 dù thế, trong nhà nguyện vẫn không được xướng Thánh Vịnh, đọc sách hay làm bất cứ điều gì khác nếu viện phụ chưa cho phép. 7 Và sau tất cả các giờ kinh Thần Vụ, người ấy phải phục xuống đất tại chỗ mình 8 mà đền tội như thế cho đến khi viện phụ bảo thôi. 9 Những ai vì lỗi nhẹ mà chỉ bị tuyệt thông nơi bàn ăn thì phải đền tội trong nhà nguyện, l0 và đền tội như thế theo lệnh viện phụ mãi đến khi ngài chúc lành cho và bảo: “Đủ rồi”.

Chú giải:

A – Ngày 24.3

Đối với thánh Biển Đức, khi có lỗi thì phải có đền bù. Thánh Biển Đức không nói tới hình phạt, nhưng tới đền bù, tạ lỗi. Ngài không nhấn mạnh tới lỗi đã phạm hay tới người có lỗi, nhưng tới điều đã bị tổn thương vì lầm lỗi đó và cần được bù đắp lại. Vậy điều đó là gì?

Người nào bị loại khỏi “nhà nguyện hay bàn ăn”, hoặc tự loại mình khỏi những nơi ấy là làm đổ bể một cái gì vượt quá bản thân họ. Họ xúc phạm tới cộng đoàn đã bị tổn thương vì một phần tử bệnh hoạn. Điều phải bù đắp lại chính là mối hiệp thông giữa các thành phần của thân thể cộng đoàn đan tu.

Nhưng có thể bù đắp sự hiệp thông bị sứt mẻ như thế nào? Thánh Biển Đức không giải thích điều này, ngài chỉ nói tới cách thức cụ thể phải thực hiện, mà vẫn không giải thích sự hiệp thông được tái lập như thế nào. Khi đọc những gì ngài viết, người ta có cảm tưởng như ngài chỉ nói tới hình phạt mà viện phụ bắt anh em sai lỗi phải chịu. Nhưng tôi không nghĩ thế. Giải đáp cho vấn đề này ta tìm thấy ở câu 4: “Người có lỗi sấp mình dưới chân viện phụ và mọi anh em để xin cầu nguyện cho mình”.

Quả thực, chỉ lòng khiêm tốn và lời cầu nguyện mới có thể đền bù được sự hiệp thông đã bị phá vỡ. Sự hiệp thông trong cuộc sống đan tu không có được nhờ sức mạnh cưỡng chế, nhưng nhờ lòng khiêm tốn. Bởi vậy nó rất mong manh, và bất cứ lúc nào cũng có thể bị tính kiêu căng phá vỡ. Chính vì thế, chỉ lời cầu nguyện mới có thể tái lập tình hiệp thông ấy mà thôi. Vì chỉ nhờ lời cầu nguyện dưới chân Chúa Kitô ta mới nhận được sức mạnh Thánh Thần để khiêm nhường xưng thú mình yếu hèn và tội lỗi.

B – Ngày 24.7

 “Để mọi người cầu nguyện cho”. Câu này đặc biệt soi sáng cho ta về điều thánh Biển Đức gọi là “đền tội”. Thực vậy, khi nào ta mới có thể quả quyết được rằng sau cùng thì người anh em đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của lầm lỗi, nếu không phải là khi anh ấy có khả năng xin người khác cầu nguyện cho?

Vì vấn đề gây ra do lầm lỗi chính là nó khiến ta tự khép kín nơi mình. Lầm lỗi khiến ta mù quáng tới độ cứ cho mình là phải, chỉ duy mình là có lý. Chính vì vậy, với sự tinh tế khác thường về tâm lý và thiêng liêng, thánh Biển Đức nhấn mạnh rằng ta chỉ được giải thoát nhờ người khác, nhờ việc chân nhận nỗi khốn khổ của mình trước mặt người khác.

Điều giải thoát ta khỏi lỗi lầm đó là lòng khiêm tốn, nhờ đấy ta nhận biết mình yếu đuối, tội lỗi, bé mọn. Lòng khiêm tốn khởi đầu từ những điều rất nhỏ trong cuộc sống: đến chậm giờ chung, làm hư hỏng đồ vật, đọc sai trong giờ thần vụ.

Vấn đề không phải là bi thảm hóa sự việc, nhưng là hiểu rằng nếu ta có thói quen xin lỗi vì những điều nhỏ mọn, ta cũng sẽ có thể xin lỗi vì những điều nặng hơn, khó khăn hơn. Tại sao? Tại vì điều thường ngăn cản ta xin lỗi không phải là vì lỗi đó không quan trọng, như ta nghĩ thế, nhưng là vì lỗi ấy quan trọng tới độ khơi dậy trong ta một nỗi lo sợ thầm kín. Ta sợ nỗi nghèo hèn của ta không được chấp nhận, ta sợ người khác, sợ Đấng Khác.

C – Ngày 23.11

Tuyệt thông có nghĩa là mối giây tin tưởng đã bị cắt đứt. Vì thế, thánh Biển Đức yêu cầu sửa chữa lại, như điều kiện cơ bản cho mọi tương giao đích thực. Không thể và cũng không được coi như chẳng có gì xẩy ra. Không có vị nể ai, dù là cộng đoàn, dù là người anh em đã phạm lỗi.

Thực vậy, nếu để những lỗi phạm như thế tăng thêm thì dần dần cuộc sống của cộng đoàn sẽ sa sút và tàn lụi. Sự tin tưởng là một phương diện cốt yếu của mọi cộng đoàn. Nếu sự tin tưởng này bị tổn thương, thì đôi khi phải mất nhiều thời gian để hàn gắn và sửa chữa.

Nhưng tuyệt thông không phải là không tôn trọng người phạm lỗi, vì như vậy có nghĩa là người ấy không đáng kể, không có chỗ trong cộng đoàn, và rất ít được tin tưởng. Sửa chữa là điều rất quan trọng để người anh em có lỗi ý thức rằng anh ta lại được là thành phần của cộng đoàn, rằng những anh em khác tin tưởng nơi anh ta.

Mà sửa chữa thì đòi thời gian, rất nhiều thời gian, không được làm qua loa cho xong chuyện. Tôn trọng từng giai đoạn phải tiến hành, chính là để bảo đảm cho mối tương quan tái nối kết được bền bỉ. Như thế, sửa chữa là cần thiết và có lợi ích cho mọi người, nó giúp xây dựng lại và cùng nhau tiếp tục tiến bước; nó giúp ta củng cố sự cao quí của phẩm giá con người. Ta chờ đợi nơi những người ta yêu thương nhiều hơn là một lời xin lỗi mơ hồ, như dấu chỉ tình thương của họ đối với ta.

Chương 45

NHỮNG NGƯỜI SAI LỖI

TRONG NHÀ NGUYỆN

Ngày 25.3 – 25.7 – 24.11 

1 Ai sai lỗi khi đọc Thánh Vịnh, đáp ca, tiền ca hay bài đọc, nếu không khiêm tốn đền tội ngay tại chỗ trước mặt mọi người sẽ bị phạt nặng hơn, 2 vì đã không khiêm tốn sửa lại điều mình sai lỗi do chểnh mảng. 3 Thiếu niên mà làm thế sẽ bị đánh đòn.    

Chú giải:

A – Ngày 25.3

Trong chương rất ngắn này ta gặp được từ “khiêm tốn” tới hai lần, ở câu 1: “nếu không khiêm tốn đền tội ngay”, và câu 2: “vì đã không khiêm tốn sửa lại”. Điều đó không khỏi làm ta ngạc nhiên. Vì đối với ta, một lầm lỡ vô ý thức thì có gì đâu mà phải nói tới khiêm tốn hay không khiêm tốn. Và ta thường nghĩ khiêm tốn trái ngược với kiêu ngạo, vì kiêu ngạo là tìm cách áp đặt quan điểm riêng, thực hiện ý riêng mình.

Ta càng không hiểu được điều đó khi lầm lẫn là chuyện xẩy ra ngoài ý muốn, xẩy ra mà ta chẳng hay biết gì. Phạt cái lầm lẫn sẽ dễ dàng khiến cho người đã bị lầm có cảm tưởng bị xử cách bất công. Anh ta đọc vấp, đọc lộn, sai câu mất chữ mà chẳng biết làm sao được v.v. Phải chăng thánh Biển Đức quá câu nệ với cách giáo dục ở thời ngài? Hay ngài muốn dạy ta điều gì đây?

Khi đọc chương 7 ta ngạc nhiên thấy rằng các bậc khiêm nhường càng lên cao thì xem ra càng tầm thường hơn. Như thể thánh Biển Đức quá chú trọng tới chi tiết. Thực vậy, ngài khởi đầu các bậc khiêm nhường với những điều đòi phải có tinh thần trách nhiệm, như việc từ bỏ ý riêng, nhưng rồi ngài lại kết thúc khi đề cập đến cách cười, cách nói là những chuyện phụ thuộc bên ngoài. Trong chương 45 này ta cũng thấy cùng một lối trình bày như vậy. Như thế hẳn là thánh Biển Đức muốn nhắm tới một điều gì khác.

Nếu đọc kỹ, ta sẽ thấy con đường khiêm tốn thánh Biển Đức trình bày ở chương 7 là con đường giải thoát khỏi chính mình, con đường dứt bỏ hình ảnh ta có về mình. Con đường này đòi phải thực hiện một khám phá cốt yếu: ta không phải là cái hình ảnh ta tự tạo ra về mình. Bản chất đích thực của ta là điều huyền nhiệm, được giấu ẩn trong nơi sâu thẳm của hữu thể ta. Vấn đề khiêm tốn thực sự không phải là đè bẹp mình nhưng là biết mình. Chỉ ai biết mình, ai nhận thức được phần nào ánh huy hoàng vô tận đang cư ngụ nơi mình mới có thể bình thản vượt qua được những thử thách trong cuộc đời. Không cần quan tâm họ có dáng vẻ thế nào, bởi vì họ đã khám phá ra nguồn mạch phát sinh hữu thể đích thực của họ.

B – Ngày 25.7

Ta có thể ngạc nhiên về sự nghiêm khắc của thánh Biển Đức trong việc sửa chữa những lỗi do chểnh mảng. Vì vấn đề ngài muốn bàn tới ở đây là sự chăm chú. Và sai lầm do chểnh mảng chỉ là triệu chứng, là dấu bên ngoài của thực tại nội tâm.

Xét cho cùng, điều gì cản trở ta chăm chú? Trước hết, sự căng thẳng nội tâm rất thường xẩy đến từ việc ta không có khả năng chấp nhận thực tại và khiến ta bỏ cái hiện có để mong được cái không có. Hoặc là vì ta bị giam hãm trong những cảm súc, những tình cảm, những ấn tượng của mình.

Nhưng còn một lý do khác gây nên sự căng thẳng nội tâm, đó là thiếu tin tưởng, thiếu đức tin vào Chúa Quan Phòng. Khi ấy ta để mình chìm ngập trong lo âu, sợ hãi về cái có thể xẩy ra hay không xẩy ra. Ta bị giam hãm trong một thứ ảo tưởng khiến ta không còn hiện diện được trước Đấng đang hiện diện trong đời ta nữa.

Nỗi khó khăn trong việc hiện diện, trong việc sống giây phút hiện tại cách sung mãn còn gây cho ta một bất lợi khác. Khi làm ta mù quáng không nhìn thấy được thực tại, nó cản trở ta thực hiện có hiệu quả những gì ta phải làm. Ta mất thì giờ vô ích và làm cho người khác mất giờ nữa. Trong khi mà mỗi giây phút qua đi đều là một lời hứa cho ta thực tại vĩnh cửu.

C – Ngày 24.11

Ta có thể ngạc nhiên về giọng nói nghiêm khắc của chương này, trong khi ở nhiều trường hợp khác thánh Biển Đức lại cho thấy ngài hết sức nhân hậu. Quả thực, thánh nhân tỏ ra cực kỳ khắt khe trong những gì liên quan tới Thần Vụ mà ngài đòi đan sĩ phải đặc biệt để ý. Về lãnh vực này, không được phép để xẩy ra những sai lỗi vì sơ xuất, nhưng nếu xẩy ra mà không tự thú ngay sẽ bị phạt nặng.

Ta nhận thấy chương này đặc biệt ngắn và có giọng như hơi bực bội, như thể thánh Biển Đức bỗng dưng đập mạnh nắm tay xuống bàn. Tại sao thế? Vì lý do gì ngài lại phán ứng cứng cỏi như vậy? Tôi nghĩ chỉ có một từ diễn tả được lý do và ý nghĩa của phản ứng này, đó là từ “chểnh mảng”. Từ chểnh mảng nói lên sự nhẹ dạ của người không còn ý thức việc mình làm nữa.

Chểnh mảng trái ngược với để ý, với khả năng hiện diện trước Đấng Hiện Diện. Thiên Chúa có mặt đấy, nhưng thường thì ta lại ở xa, lại vắng mặt. Trong truyện thánh Biển Đức, thánh Grêgôriô diễn tả cảm thức về sự hiện diện tiềm ẩn trong suốt cả tu luật bằng một thành ngữ đặc biệt: “ở với chính mình”. Theo thánh Biển Đức, tất cả đời sống đan tu hệ tại việc trở về với mình để ở lại với Chúa.

Tất cả những gì làm phân tâm chia trí đều khiến ta bất an và xa lìa đường tu đức về sự hiện diện trước Đấng Hiện Diện. Điều ấy có thể xẩy ra ngoài ý muốn. Nhưng ta cũng thấy ta thường để tâm trí mình bị bận rộn, ta chất đầy khoảng trống nội tâm bằng đủ thứ chuyện trò bên ngoài hay bên trong, để tránh cho khỏi phải giữ mình trong tư thế đợi chờ, chăm chú. Ta chọn sống theo cái nhẹ dạ và bỏ mất ý nghĩa sâu xa của đời mình.

Chương 46

NHỮNG SAI LỖI TRONG CÁC NƠI KHÁC

Ngày 26.3 – 26.7 – 25.11  

1 Trong khi làm bất cứ việc gì ở nhà bếp, nhà kho, trong xưởng, ở lò bánh, ngoài vườn, hay làm nghề gì bất luận ở đâu, nếu ai sai lỗi, 2 như làm bể, đánh mất vật gì, hoặc làm chi thái quá, 3 mà không lập tức đến thú lỗi và tạ tội trước viện phụ và cộng đoàn, 4 trong khi đó kẻ khác đã biết lỗi của mình, thì người ấy sẽ bị sửa phạt nghiêm ngặt hơn. 5 Nhưng nếu là lỗi thầm kín trong tâm hồn thì chỉ nên bày tỏ với viện phụ hay với các vị linh hướng. 6 Các ngài biết cách chữa lành vết thương của mình và của kẻ khác mà không tiết lộ hoặc nói ra công khai.

Chú giải:

A – Ngày 26.3

Trong chương 46 này, thánh Biển Đức cho biết ý nghĩa sâu xa của việc xưng thú lỗi lầm, dù là lỗi bên ngoài hay lỗi thầm kín. Tất nhiên cách xưng thú không giống như nhau, vì những lỗi bên ngoài phải trình bày công khai, còn những lỗi trong tâm hồn phải xưng thú cách kín đáo. Tuy thế, cả hai trường hợp đều là băng bó những vết thương đã xẩy ra.

Nếu ta dễ dàng hiểu điều đó trong trường hợp lỗi thầm kín, thì ta lại khó nhận ra điều thánh Biển Đức muốn nhắm tới khi liên quan đến những sai lầm nhỏ mọn, những lơ đễnh chểnh mảng mà ta mắc phải suốt ngày. Tai sao ta cần được chăm sóc vì những chuyện lặt vặt đó? Tại sao khi làm vỡ, đánh mất hay quên sót cái gì đó mà lại đáng bị kết án?

Để hiểu được điều thánh Biển Đức nhắm tới, cần phải nhớ lại đời đan tu là gì đối với ngài. Đó là sống trước mặt Chúa. Tất cả nghệ thuật sống đời đan tu hệ tại việc trở nên hiện diện với mình, với người khác, với mọi sự, và nhất là với Chúa. Đối với thánh Biển Đức, cũng như đối với thánh Augustinô, thảm kịch của đời người chính là sống xa mình và xa Chúa đấng ngự trong nơi sâu thẳm nhất của bản thân mình. Đó là quên! Quên mất mình và quên mất Chúa!

Nếu đời đan tu là ngôi trường dậy ta biết sống hiện diện, trở nên hiện diện, thì tất cả những thiếu sót nhỏ mọn đều là triệu chứng của sự xa cách, của sự không hiện diện, của đãng trí phân tâm. Ta không sẵn là đan sĩ rồi, nhưng ta trở nên đan sĩ, mỗi ngày một ít, khi để cho mình được thống nhất lại. Và muốn được vậy, thì điều cốt yếu là ý thức được tác động không ngừng đưa ta đi xa và khiến ta bị phân tán trong vô số những sự nọ vật kia, vô số những tư tưởng. Ta được mời gọi trở về với sự thống nhất nội tâm, trở về hiện diện trước mặt Chúa.

B – Ngày 26.7

Biết nhận ra mình lầm lỗi, chấp nhận bị khiển trách, biết xin lỗi, tất cả không phải tự nhiên mà làm được. Phản xạ trước hết của ta vẫn thường là chữa mình và đổ lỗi cho người khác. Điều đó đã xưa như trái đất rồi. Ta thấy sách Sáng Thế thuật lại truyện ông Ađam bảo tại lỗi bà Evà, bà Evà lại đổ tội cho con rắn.

Ta có thể gặp phản xạ đó hằng ngày nơi người khác và nơi bản thân ta. Có lẽ không vô ích khi suy nghĩ một chút để tìm xem điều gì ẩn dấu sau thái độ cố hữu ấy của con người.  

Sau thái độ từ chối nhận lỗi, từ chối sửa mình, đôi khi có thể là kiêu ngạo, nhưng phần lớn trường hợp đó là nỗi sợ thầm kín. Thực vậy, ta sợ lầm lỗi ấy sẽ làm méo mó hình ảnh ta tự tạo ra về mình, và để tự vệ thì ta đẩy nó cho người khác. Cứ thế cho đến khi hình ảnh giả tạo kia bị sụp đổ.

Tuy nhiên, biết nhận lỗi là một ơn huệ lớn lao. Đồng ý   rằng mình yếu đuối và dễ lỗi phạm sẽ dẫn ta đến tự do, vì chỉ người nào chấp nhận những giới hạn của mình mới có thể trở nên người tự do và có khả năng được giải thoát. Phải can đảm lắm mới thực sự là mình được. Ađam được rút ra từ đất, là bùn đất bởi bùn đất, nhưng lại là nơi Thiên Chúa muốn cư ngụ.

C – Ngày 25.11

Thánh Biển Đức nói đến hai dạng thức lỗi rất khác nhau. Lỗi bên ngoài và lỗi thầm kín trong nội tâm. Những lỗi bên ngoài, thánh nhân yêu cầu đan sĩ đơn sơ xưng thú trước mặt viện phụ và cộng đoàn. Nếu không chịu làm, họ sẽ bị khiển trách nghiêm thẳng, vì như vậy là họ đã tỏ ra mù quáng bởi kiêu căng tự phụ.

Trái lại, những lỗi bên trong, thánh nhân yêu cầu không được cho ai biết. Đây là bí mật lương tâm. Và giữ được bí mật này là tiêu chuẩn về phẩm chất của cha thiêng liêng đích thực, cùng với khả năng chăm sóc vết thương của ngài và của người khác. 

Như Thánh Kinh nói, thánh Biển Đức biết rằng “lòng người phức tạp và bệnh hoạn”, ngài cũng biết không có giải pháp nào đúng cho mọi lúc mọi nơi, không có phương dược nhiệm mầu nào cả. Cộng đoàn đan tu không phải là một cộng đoàn những con người trong trắng, nhưng là cộng đoàn các tội nhân.

Điều này có hai hệ quả: -phải dè chừng với khuynh hướng cứ muốn nói không có gì, chẳng sao đâu, muốn coi nhẹ lỗi lầm; -nhưng hơn nữa, phải cẩn thận kẻo lại giam hãm anh em hay chính mình trong lầm lỗi, như thể Chúa chẳng làm gì được. Ta vừa lớn hơn, nhưng cũng vừa nhỏ hơn là mình tưởng: ta là tội nhân nhưng lại được Thiên Chúa vô cùng yêu thương; là con cái Cha, nhưng vẫn luôn có thể sa ngã.

Chương 47

PHẢI BÁO GIỜ THẦN VỤ THẾ NÀO?

Ngày 27.3 – 27.7 – 26.11    

1 Báogiờ Thần Vụ ngày đêm là trách nhiệm của viện phụ. Chính ngài phải tự đảm nhận hoặc giao việc ấy cho một anh em cần mẫn để mọi sự được chu toàn đúng giờ đã định. 2 Những ai được chỉ định cất xướng Thánh Vịnh hay tiền ca, hãy cất xướng theo thứ tự mình sau viện phụ. 3 Đừng ai tự tiện hát hay đọc, nếu không có khả năng chu toàn phận sự ấy để làm ích cho người nghe. 4 Ai được viện phụ bảo, hãy chu toàn nhiệm vụ này cách khiêm tốn, nghiêm túc và kính cẩn.

Chú giải:

A – Ngày 27.3

Trong chương rất ngắn về việc báo hiệu giờ thần vụ này, danh xưng viện phụ được nhắc tới ba lần! Ngoài một vài cách giải thích có tính hài hước về tương quan giữa chuông hiệu và viện phụ, ta thấy thánh Biển Đức nhấn mạnh tới vai trò của viện phụ ở đây để mời gọi ta ý thức tầm quan trọng của việc phụng sự Chúa, của Thần Vụ.

Ta có thể tóm gọn điều đó trong câu giống như một khẩu hiệu: “Phụng sự Chúa trước hết!”. Đúng vậy, phải phụng sự Chúa trước hết, trước tất cả những gì có thể làm ta sao lãng hay kìm hãm ta lại. “Phụng sự Chúa trước hết”, trước mọi sự và nhất là trước bản thân ta.

Ở nơi khác thánh Biển Đức sẽ nhắc lại điều đó bằng những câu mà ta còn ghi khắc mãi trong tâm trí, như: “Không quí chuộng gì hơn việc Chúa”, “không yêu mến gì hơn Chúa Kitô” (4,21) v.v… Đời sống đan tu là một cuộc sống rất bình thường, nhưng với một sắc thái đặc biệt, một ưu tiên làm thay đổi tất cả.

Quả thực, rất chính đáng khi tìm cách để thành đạt trong cuộc đời bằng việc hành nghề, lập gia đình v.v… Tất cả đều tốt, và rất tốt nữa. Nhưng điều làm cho đời đan tu có tính cách đặc biệt khác với mọi cuộc sống khác đó là ưu tiên dành riêng cho Chúa. Những người vào đan viện vì điều gì khác sẽ luôn luôn bị thất vọng. Những người vào đó để tìm thể hiện bản thân, tìm cho được thành công trong lãnh vực nào đó, sau cùng sẽ trở nên cay đắng và sầu khổ. Làm đan sĩ tức là lấy Chúa làm hơn hết.

B – Ngày 27.7

“Khiêm tốn, nghiêm túc, kính cẩn”. Ba từ này tóm gọn cả một chương trình sống, và giúp ta hiểu được ý nghĩa ơn gọi đan tu của mình. Ba từ này cũng nói với ta nhiều điều về cuộc hoán cải sâu xa nơi bản thân mỗi người và về những thách đố ta phải nêu lên.

Trước hết “khiêm tốn”. Khiêm tốn là ý thức về cái hiện thực, ý thức về những giới hạn cũng như về sự gắn kết của con người vào một môi trường. Một cách nào đó, khiêm tốn là sinh thái học của đời sống thiêng liêng. Khiêm tốn trái ngược với mọi hình thức chủ trương siêu thoát. Chủ trương siêu thoát của người tưởng tượng có thể tự mình lên trời được, và của người coi cái gì cũng đẹp, ai cũng dễ thương cả. Khiêm tốn là chấp nhận thân phận con cháu Ađam của mình.

“Nghiêm túc” phát sinh từ khiêm nhường. Đó là nhận thức được trách nhiệm của ta. Nghiêm túc đến từ phát hiện rất rõ rằng ta chỉ có một cuộc đời để sống và cái chết đang tới gần. Nghiêm túc không đối nghịch với niềm vui, nhưng với tính nhẹ dạ, với thái độ tự do quá trớn. “Gravitas” trong bản la tinh có nghĩa đen là sức nặng, trọng lực. Người “nghiêm túc” là người tìm được trọng tâm của mình và đứng vững tại đó.

“Kính cẩn”, đó là biểu lộ lòng khiêm nhường và sự nghiêm túc. Biết mình là ai, biết mình phục vụ ai sẽ tạo nên nơi ta một thái độ nội tâm và ngoại giới thích hợp. Tôn trọng mình, tôn trọng người khác, tôn trọng sự vật, và tất nhiên kính cẩn đối với Chúa. Theo thánh Biển Đức, kính cẩn là tên gọi khác của sự chăm chú, là thái độ cụ thể khi ở trước Đấng đang hiện diện trước mặt mình. Tóm lại, ba từ khiêm tốn, nghiêm túc và kính cẩn nói lên phẩm chất của sự hiện diện, của chiều sâu tâm hồn ta trước tôn nhan Thiên Chúa.

C – Ngày 26.11

Thánh Biển Đức đặc biệt giao cho viện phụ trách nhiệm về diễn tiến của các giờ thần tụng. Điều ấy chứng tỏ thánh nhân coi giờ kinh quan trọng như thế nào. Viện phụ trước hết không phải là một nhà quản trị hay một quản lý, nhưng nhiệm vụ chính của ngài là hướng dẫn anh em trên đường cầu nguyện. Và điều ấy có nghĩa rằng trọng tâm của cộng đoàn đan tu và của mỗi thành viên là cầu nguyện.

Nhưng thực tế có như vậy không? Thắc mắc này hẳn không vô ích. Thật vậy, ta có thể dần dần đi lệch hướng, làm lệch trọng tâm và thay thế nó bằng đủ thứ gì khác: những mối bận tâm, những tương quan giao tiếp, hay chính cái tôi của mình. Trọng tâm của ta thực sự là ở đâu?

Thật khó mà tự mình giải đáp những vấn nạn kiểu này. Thường thì người khác lại thấy rõ hơn ta. Có vô số những dấu hiệu nho nhỏ, những triệu chứng, cho thấy khuynh hướng thực sự của ta. Và điều này thật quan trọng, vì phần nào ta giống như những chiếc thuyền buồm trên mặt biển, coi như bất động, nhưng càng đi chúng càng có thể lạc hướng.

Chính vì thế mà cộng đoàn giữ vai trò thiết yếu trong cuộc sống của ta. Trong khi giữ đúng hướng, cộng đoàn giúp ta tìm lại được con đường ta phải đi, nếu có khi nào do vô ý hay bất cẩn ta bị lạc đường. Đây đặc biệt là vai trò của các vị cao niên, bằng sự trung tín âm thầm và khoan dung, các ngài dẫn ta trở lại đường ngay nẻo chính, con đường của ơn gọi đan tu đích thực.

Chương 48

VIỆC LAO ĐỘNG CHÂN TAY HẰNG NGÀY

Ngày 28.3 – 28.7– 27.11    

1 Ởnhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc chân tay, có giờ đọc sách. 2 Cha thiết tưởng có thể xếp đặt thời giờ cho hai việc ấy như sau: 3 Từ lễ Phục Sinh đến ngày 14 tháng 9, từ giờ thứ nhất đến khoảng giờ thứ tư anh em đi làm những công việc cần thiết. 4 Từ giờ thứ tư đến khoảng giờ thứ sáu, anh em đọc sách. 5 Sau giờ thứ sáu, khi đã ăn xong, anh em về giường nghỉ, triệt để giữ thinh lặng. Ai muốn đọc sách thì cứ đọc riêng một mình, miễn sao không làm phiền kẻ khác. 6 Kinh Giờ Chín đọc sớm hơn thường, vào lúc giờ tám rưỡi, rồi anh em lại đi làm cho tới giờ Kinh Chiều. 7 Nếu vì nhu cầu địa phương hay cảnh khó nghèo đòi hỏi mà phải gặt hái thì anh em không nên buồn phiền, 8 vì chỉ khi nào sống bằng thành quả lao động của mình như Cha Ông ta và các Tông đồ, ta mới thật là đan sĩ. 9 Nhưng dù sao trong mọi sự phải giữ chừng mực, vì còn có những anh em yếu sức.

Chú giải:

A – Ngày 28.3

Với thánh Biển Đức, có hai lý do căn bản cho thấy sự quan trọng của lao động trong đời sống đan tu. Lý do thứ nhất, ở câu 1 ngài quả quyết rằng “ở nhưng là thù địch của linh hồn”. Lý do thứ hai, ở câu 8, ngài bảo: “Chỉ khi nào sống bằng thành quả lao động của mình như Cha Ông ta và các Tông Đồ, ta mới thật là đan sĩ”.

Như vậy, lý do thứ nhất xem ra chỉ liên quan tới cuộc sống thiêng liêng của mỗi cá nhân, trong khi lý do thứ hai liên quan tới lãnh vực xã hội của con người. Nhưng có đúng vậy không? Phải chăng có sự khác biệt như thế?

Lý do thứ nhất, được thánh Biển Đức nêu ra trước, liên quan tới cuộc sống nội tâm của đan sĩ. Lao động giúp linh hồn khỏi nghĩ tưởng lung tung và khỏi bị dục vọng lôi cuốn. Khi giúp thân xác và tinh thần nhắm tới một điều thiện trong lúc hoạt động, công việc làm cho con người được ổn định, lòng trí không bị phân tán. Nhưng lao động còn một vai trò khác có lẽ quan trọng hơn.

Khi cho ta cơ hội tiếp xúc với những sự vật, những con người, lao động buộc ta rời bỏ thế giới của mình để đi vào thế giới khác: thế giới vật chất đòi hỏi ta phải thích ứng, và thế giới những con người làm việc với ta. Lao động khiến ta không còn cứ loay hoay với mình nữa, nhưng giúp ta mở rộng lòng để hiệp thông.

Chính vì được mở rộng lòng cho chiều kích căn bản của con người là sự hiệp thông, nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, mà các Tông Đồ khám phá ra tầm quan trọng của lao động. Lao động mở lòng ta để hiệp thông, ý nghĩa của hiệp thông khiến ta chăm chỉ làm việc, khi đó lao động không còn chỉ đơn thuần là một việc phải làm, một phương tiện kiếm sống, nhưng là biểu hiện tình liên đới sâu xa với mọi người, những anh chị em của ta.

Lao động còn mang chiều kích thần bí khi được liên kết với Chúa Giêsu trong việc ngài hiến dâng mình vì tình yêu cho tới chết trên Thánh Giá.

B – Ngày 28.7

Với thánh Biển Đức, mục đích của lao động không phải chỉ là kiếm sống, như ngài nói ở câu 8: “Họ chỉ là đan sĩ thực sự khi sống bằng công việc do tay mình làm”; nhưng nhất là để chống lại sự nhàn rỗi là thù địch của linh hồn (c.1). Đời sống đan tu và sự nhàn rỗi, ươn lười, chểnh mảng không thể hòa hợp với nhau được.

Nhưng phải cẩn thận kẻo lại làm méo mó tư tưởng của thánh Biển Đức. Ngài không bảo lúc nào cũng phải làm việc để tránh suy nghĩ. Ngài cũng không bảo phải thay thế cơn lốc tư tưởng bằng đủ thứ công việc. Như ngài đề nghị, làm việc không phải đơn thuần là để lấp chỗ trống, để đan sĩ giải khuây; điều đó chỉ càng gây thêm thiệt hại.

Vai trò đầu tiên của lao động, một phương diện cơ bản của con đường thiêng liêng, đó là dậy ta biết ở với chính mình, biết đi xuống tới những giới hạn của thân xác mình, nếu có thể nói được như thế. Lao động đưa đan sĩ từ cái mơ mộng, từ cái ảo tới cái hiện thực.

Nhưng lao động cũng có một chiều kích khác: nó giúp ta phục vụ ích chung, phục vụ người khác. Đó là điều phân biệt cách cơ bản lao động với công việc chỉ làm để tiêu khiển. Lao động không tìm mình, không vì lợi ích riêng, nhưng là phương tiện chắc nhất để ra khỏi mình, để quên mình đi. Lao động là một trong những nơi chốn xác thực nhất để gặp được tha nhân. Khi đưa ta từ cái ảo tới cái thực, và từ sự yêu mình tới tình yêu tha nhân, lao động là một khoa sư phạm thiêng liêng đích thực, một con đường hoán cải tuyệt vời.

C – Ngày 27.11

Đan sĩ là con người lấy việc cầu nguyện làm nghề của mình, và đan viện là cơ xưởng nơi họ thực hiện cái nghề ấy, cũng như họ thực hiện qua những nhiệm vụ khác nhau. Trước hết là việc Chúa mà thánh Biển Đức yêu cầu không được quí trọng gì hơn. Tiếp đến là những sinh hoạt khác, được thánh nhân xếp vào giữa các giờ thần vụ và dệt nên ngày sống của đan sĩ. Những sinh hoạt này được ngài đặt trên cùng một bình diện, là lectio divina và công việc chân tay.

Như vậy, công việc cũng là một kỹ thuật cầu nguyện, giống như lectio. Dù thánh Biển Đức có nhấn mạnh tới phương diện sinh lợi và hữu ích – “họ chỉ thật là đan sĩ khi sống nhờ công việc do tay mình làm” -, đó vẫn không phải là cái đầu tiên ngài nhắm tới.

Với thánh Biển Đức, làm việc trước tiên không phải là để sống, để phục vụ cộng đoàn, cũng không phải làm cho Chúa, nhưng làm việc với Chúa, trước mặt Chúa. Vậy làm sao công việc có thể trở thành trường cầu nguyện, một ngôi trường dạy ta sống trước mặt Chúa? Trước hết làm việc chân tay là sống khổ hạnh trong cái thực tế. Sự vật dậy cho ta nhiều điều, vì chúng đòi buộc ta phải ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của ta để hòa nhập vào thực tại. Hơn nữa, công việc chân tay là con đường nhập thể. Thực vậy, một cách mâu thuẫn, ta cần phải trở nên xác thịt, phải đứng bằng hai chân trên mặt đất, phải tôn trọng nhịp sống của các hữu thể, các sự vật, phải trở nên con người, phải chấp nhận những giới hạn của con người. Như thế, công việc chân tay là con đường thanh tẩy, đường thinh lặng nội tâm, đường thống nhất thiêng liêng.

Khi vào đan viện, ta phải mất nhiều thời gian mới cảm  nghiệm được rằng thần vụ, lectio, công việc, học hành chỉ có một mục đích là giúp ta tìm Chúa. Ngày nay có lẽ ta cần tái khám phá chiều kích thiêng liêng và nội tâm của công việc như con đường dẫn ta đến hiệp nhất với Thiên Chúa.

Ta đã bị ảnh hưởng bởi nền văn minh của thời gian rảnh rỗi, của hiệu quả và lợi nhuận bằng mọi giá, của tốc độ. Có lẽ đó là một trong những thách đố lớn nhất cho ta trong những năm sắp tới? Để thời gian của ta, trọn cả thời gian của ta lại trở thành thời gian của Chúa.

 Ngày 29.3 – 29.7 – 28.11     

10 Từ 14 tháng 9 đến đầu mùa chay, anh em đọc sách đến hết giờ thứ hai, 11 sau đó đọc kinh Giờ Ba, rồi ai nấy đi làm việc đã chỉ cho đến giờ thứ chín. 12 Khi nghe báo hiệu kinh Giờ Chín lần đầu, mọi người ngưng việc và sẵn sàng khi nghe hiệu lần hai. 13 Dùng bữa xong, anh em đọc sách hay đọc tu luật. 14 Trong mùa chay, từ sáng đến hết giờ thứ ba, anh em đọc sách rồi đi làm việc đến giờ thứ mười. 15 Trong những ngày mùa chay, mọi người lĩnh sách nơi thư viện và tuần tự đọc cho hết, 16 các sách đó được phát từ đầu mùa chay. 17 Giờ đọc sách phải chỉ định một hay hai anh em cao niên đi xem xét, 18 trông chừng kẻo có ai lười biếng không chăm chỉ đọc sách, hoặc ở nhưng, hoặc nói chuyện phiếm, chẳng những thiệt hại cho mình mà còn làm người khác chia trí. 19 Nếu bắt gặp người nào như thế – mong đừng có vậy – thì hãy khiển trách một hai lần, 20 nếu không sửa mình hãy chiếu luật mà nghiêm phạt để người khác sợ. 21 Những giờ cấm anh em không được giao tiếp với nhau.

Chú giải:

A – Ngày 29.3

Chương 48 này không chỉ nói về lao động, nhưng đúng hơn nói về việc luân phiên nhau giữa lao động và đọc sách. Việc luân phiên này có nguồn gốc rất xa xưa, vì đã được thánh Antôn, người Cha của các đan sĩ, truyền lại, khi từ sa mạc đi ra ngài thấy một thiên thần cứ thay đổi luân phiên giữa cầu nguyện và làm việc.

Phải như vậy, vì cầu nguyện liên tục là điều rất khó. Như Cassianô nhận xét trong các bài Thuyết giáo, ngay cả các vị thánh lớn nhất cũng có lúc phải lo đến những việc đời. Chính Chúa Giêsu cũng đã không dành suốt đời chỉ để cầu nguyện với Chúa Cha. Như vậy, không phải vì bất đắc dĩ mà phải thay đổi giữa cầu nguyện và làm việc. Nhưng có lẽ điều này mang một ý nghĩa sâu xa mà ta không nghĩ tới.

Thực vậy, một trong những nguy cơ lớn nhất vẫn rình rập ta, đó là coi mình như những con người thiêng liêng, những bậc thầy về cầu nguyện. Về điểm này, chương 73, chương cuối cùng của tu luật, rất bổ ích. Khi đã giữ trọn tu luật này, ta khám ra mình chỉ là những người mới bắt đầu! Thực vậy, cần phải dành ít ra cả một đời để nhận thấy được mình là những kẻ mới bắt đầu, rằng mình chưa hiểu biết gì cả.

Chỉ những người không có kinh nghiệm, không có chiều sâu mới nghĩ mình đã qua giai đoạn khởi đầu. Dấu hiệu cho thấy sự tiến bộ thiêng liêng trong đời ta, đó là khám phá ra càng ngày càng rõ hơn rằng mình chưa thực sự bắt đầu. Trong một cách ngôn nổi tiếng, vị cao niên kia trả lời đan sĩ trẻ hỏi mình đã tiến bộ nhiều chưa như sau: “Cha bắt đầu mỗi ngày”.

B – Ngày 29.7

“Ai nấy đi làm việc đã chỉ” (c.11). Một trong những đặc điểm của công việc trong đan viện là được chỉ định, nghĩa là được yêu cầu làm chứ không do ta chọn. Điều này có vẻ hiển nhiên và bình thường. Thực vậy, biết bao người trong xã hội không thể chọn công việc theo sở thích. Và nếu ngày nay người ta có khuynh hướng muốn tổ chức thời giờ theo ý mình, sắp xếp công việc như mình thích, thì ta có thể tự hỏi phải chăng thánh Biển Đức cũng sẽ theo khuynh hướng đó, nếu ngài viết tu luật vào thời điểm này.

Truyền thống đan tu đã có kinh nghiệm về điều đó. Mỗi đan sĩ có chương trình riêng về cầu nguyện cũng như lao động, được ấn định theo hướng dẫn của cha thiêng liêng. Nhưng những cộng đoàn như thế đã mau chóng suy tàn và biến mất. Ở Mont Athos, những cộng đoàn ấy được thay thế bằng những cộng đoàn được tổ chức theo một qui luật chung.

Thực ra, chương trình hay thời dụng biểu không phải là điều cơ bản nhất. Vấn đề là ở chỗ muốn sống thân mật với Chúa ta phải không còn bận tâm tới mình, tới những tư tưởng mình có về Chúa, về cầu nguyện, tới những ảo tưởng về bản thân. Khi vận dụng sáng kiến, khi tái tổ chức cuộc sống theo sở thích của mình, thì thường là ta tìm cách tránh giáp mặt với Chúa và với chính mình.

Thánh Biển Đức đưa ra nguyên tắc thiêng liêng cơ bản này dưới những hình thái khác nhau: nhận công việc, lĩnh y phục, đồ ăn thức uống, nhận nhiệm vụ, biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ những cái bù trừ chẳng đáng gì để dần dần mở lòng đón hưởng niềm vui của Chúa. Tất cả khoa sư phạm đan tu khởi nguồn từ qui luật đơn giản này: quên mình vì Chúa.

C – Ngày 28.11

Với thánh Biển Đức, lao động trước hết không phải là một bổn phận phải thi hành, nhưng là một thời gian được ấn định, được cân nhắc. Thánh Biển Đức biết rõ không phải ai cũng có khả năng như nhau. Có những người cần trợ giúp, người khác lại không. Mỗi người có khả năng riêng của mình. Và không thể đòi hỏi mọi người đều có thể làm cùng một việc. Trái lại, mọi người đều có thể lao động trong khoảng thời gian ấn định.

Như thế, đối với thánh Biển Đức, lao động trước hết là khoảng thời gian được dành để làm việc. Vấn đề không phải là làm cho thật nhanh để xong trước giờ, hoặc ngược lại cố ý kéo dài thời gian làm việc. Không, vấn đề là thực hiện công việc được yêu cầu, trong thời gian đã định sẵn.

Từ ít lâu nay, trong cộng đoàn, ta đã mất đi ý nghĩa lao động như là một hy sinh thiêng liêng đòi phải tuân theo một thời dụng biểu. Ta thường thấy có những anh em hoặc làm vội vã, hoặc làm cái gì khác. Thiết tưởng điều đó là do hiểu sai giá trị của lao động. Vì, đối với thánh Biển Đức, lao động cũng là làm việc trên chính mình chẳng khác gì như làm trên sự vật.

Làm việc trên chính mình cũng có giá trị ngang với cầu nguyện và đọc Lời Chúa. Vì khi bắt ta phải theo những giới hạn, những bó buộc bên ngoài, lao động giúp ta được tự do đối với những tình cảm, ước muốn và khát vọng của ta. Lao dộng giúp ta gắn bó với thực tại, bén rễ sâu vào mặt đất này. Vì thế, thánh Biển Đức đã dự liệu trước là khi một anh em không thể đọc sách, thì sẽ có công việc gì đó để làm.

Ngày 30.3 – 30.7 – 29.11     

22  Ngày Chúa nhật, anh em chuyên lo đọc sách, trừ những người bận công tác đã được chỉ định. 23 Nếu ai chểnh mảng hay lười biếng đến nỗi không thể suy niệm hay đọc sách được, hãy giao cho họ một công việc để khỏi ở nhưng. 24 Với những anh em bệnh hoạn hay yếu sức, hãy giao cho họ một việc hay một nghề gì để khỏi nhàn rỗi, mà cũng không nặng nhọc quá đến nỗi phải lẩn trốn. 25 Viện phụ phải lưu tâm đến sự yếu đuối của những anh em này.

Chú giải:

A – Ngày 30.3

“Viện phụ phải lưu tâm đến sự yếu đuối của những anh em này” (c.25). Trong bản la tinh, từ “imbecillitas” hoặc “imbecillus”, ta dịch là “sự yếu đuối”, được dùng tới trong nhiều chương của tu luật. Trước hết ở chương 35 về phiên giúp bếp hằng tuần, câu 3: “Đối với những anh em yếu đuối, hãy cho người phụ giúp để họ chu toàn công tác mà không buồn phiền”. Ở chương 37, câu 2 về người cao tuổi và trẻ em: “Phải quan tâm đến sự yếu đuối của họ, đừng khắt khe với họ trong việc ăn uống”. Và ở chương 40, câu 3: “Nhưng vì nhân nhượng cho những người yếu đuối, cha nghĩ mỗi ngày một ly rượu cho mỗi người là đủ”.

Khi đặt các trích dẫn đó lại gần nhau, ta có thể nhận ra giáo thuyết của thánh Biển Đức về ý niệm yếu đuối. Giáo thuyết ấy liên quan trước hết đến tuổi tác: người cao niên và người trẻ (ch.73), rồi tới khả năng lao động (ch. 35 và 48), sau cùng là khả năng kiêng khem, sống khổ hạnh (ch. 46). Như thế, đối với thánh Biển Đức, sự yếu đuối là ý thức về giới hạn thể lý hay tâm lý, khách quan hay giả định. Ở điểm này, thánh Biển Đức đẩy lui một chút những giới hạn trong cách ta nhìn và phán đoán.

Thực vậy, trái ngược với điều mà đôi khi ta tưởng, những giới hạn của ta rất thường được liên kết với những nỗi sợ: sợ thiếu sót, sợ không đạt tới được. Thế là ta hoảng hốt, ta bỏ mất hết mọi phương tiện. Và ta lại khó mà chấp nhận những giới hạn này vì chúng không khách quan. Chúng làm ta khó chịu vì chúng cậy nhờ tới những bộ máy vô thức. Khi ấy ta bị cám dỗ nghi ngờ anh em lười biếng, nói dối, trốn tránh nhiệm vụ. Tuy nhiên, đôi khi đó là một yếu đuối rất hiện thực mà cần phải nhiều năm mới nhận ra được. Vì thế thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ phải quan tâm.

B – Ngày 30.7

Trong đoạn tu luật ngắn này thánh Biển Đức lại nói tới việc ở nhưng, “thù địch của linh hồn”. Ngài muốn nhắc lại giáo thuyết của Cassianô, so sánh linh hồn như cái cối xay, cần có hạt cho nó xay, bằng không thì đủ thứ tư tưởng xấu sẽ xuất hiện. Điều đó ngụ ý rằng linh hồn không thể chịu được sự trống rỗng. Tự bản tính, con người không thể ở nhưng, không thể không làm gì.

Điều đó trái ngược với việc tìm kiếm cái trống rỗng nội tâm đã làm sinh động nhiều trào lưu linh đạo đông phương. Quả thật, cũng như truyền thống đan tu cổ thời, thánh Biển Đức nghĩ rằng đàng sau mặt ngoài của cái trống rỗng người ta có nguy cơ chỉ gặp được mình, thỏa mãn về mình.

Cũng như linh đạo kitô giáo, linh đạo đan tu được xây dựng trên tương quan với Đấng Khác, trên sự hiển linh của Đấng Khác. Cảm nghiệm sự vắng mặt không phải là cảm nghiệm sự trống rỗng, nhưng là cảm nghiệm sự đợi chờ một Đấng Khác. Cảm nghiệm này giả thiết phải có lòng khát khao nồng nhiệt mà các Linh Phụ Xitô đã nói tới rất nhiều. Sống đời đan tu là sống cuộc hành trình trải dài suốt lịch sử Mạc Khải: Thiên Chúa đi tìm ta và ta đi tìm ngài.

Cái làm cho cuộc sống đan sĩ nên sinh động không hề giống với nhu cầu hoạt động không lành mạnh, chỉ tìm thỏa mãn cho bản thân. Lao động hay đọc sách là để giúp ta tăng thêm lòng khát khao gặp Chúa. Khi không ngừng đề phòng ta khỏi khép kín nơi mình, thỏa mãn với những tư tưởng riêng của mình, thánh Biển Đức tìm cách khơi dậy trong ta lòng khao khát, sự nhiệt thành, tình yêu hứng khởi, thứ “tình yêu ban đầu” mà Thánh Kinh nói tới.

C – Ngày 29.11

Trong bản tiếng latinh của chương này nhiều lần khi nói về việc đọc sách thánh Biển Đức dùng động từ “vacare” mà ta dịch là chuyên lo. Theo từ nguyên, “vacare”có nghĩa là “trống rỗng, làm cho trống rỗng”. Vậy ở đây có thể giải thích “vacare” theo hai mức độ: -trước hết là làm trống rỗng mọi hoạt động, mọi công việc: -và, ở mức độ cao hơn, trở nên trống rỗng để Thiên Chúa tới ngự nơi cái trống rỗng ấy.

Nhưng không phải đương nhiên mà mọi người đều làm được như vậy. Đây là một ơn đặc biệt, một thử thách phải vượt qua. Có nghĩa là cái trống rỗng ấy làm ta sợ, làm ta bỗng dưng cảm thấy mất căn tính. Sự trống rỗng có thể gây nên trong ta một nỗi khắc khoải khủng khiếp, giống như nỗi khắc khoải của người sắp chết vậy.

Trong cái trống rỗng này ta đụng chạm tới nỗi yếu hèn, sự nghèo khó của ta. Trong cái trống rỗng này ta cảm nghiệm được mình chỉ là một hơi thở, một cọng rơm bay theo gió. Điều này xem ra rất khó mà chịu nổi, vì thế thánh Biển Đức dự liệu một công việc không phải để lấp đi cái trống rỗng ấy, nhưng để từ từ làm quen với nó.

Chương 49

VIỆC GIỮ MÙA CHAY

Ngày 31.3 – 31.7 – 30.11     

1 Lẽ ra lúc nào đan sĩ cũng phải sống như trong mùa chay. 2 Nhưng ít người có can đảm sống được như thế. Vậy trong mùa chay cha khuyên ai nấy hãy giữ đời sống mình cho thật tinh tuyền. 3 Đồng thời trong những ngày thánh ấy hãy gột rửa những sơ xuất của các mùa khác. 4 Điều đó có thể thực hiện được nếu ta chế ngự mọi tật xấu, tha thiết cầu nguyện, đọc sách, thành tâm sám hối và thực hành chay tịnh. 5 Vậy trong những ngày này, ta hãy thêm đôi chút vào nghĩa vụ thường nhật, như cầu nguyện riêng, bớt ăn uống. 6 Ngoài mức luật định, mỗi người hãy có chút gì tự nguyện dâng lên Thiên Chúa trong niềm vui của Thánh Thần. 7 Chẳng hạn như thân xác bớt ăn uống, bớt ngủ nghỉ, bớt bông đùa để tâm hồn được hân hoan mong đợi lễ Phục Sinh. 8 Tuy nhiên, mỗi người hãy trình bày với viện phụ để ngài chấp nhận và cầu nguyện cho.

Chú giải:

A – Ngày 31.3

“Lẽ ra lúc nào đan sĩ cũng phải sống như trong mùa chay” (c.1). Đối với thánh Biển Đức, đâu là đặc điểm của tinh thần mùa chay, nếu không phải là sống trong sự đợi chờ đại lễ Phục Sinh, trong niềm hoan lạc đến từ khát vọng thiêng liêng (c.7), “trong niềm vui của Thánh Thần” (c.6)?

Như vậy, đối với thánh Biển Đức, đặc điểm cốt yếu của mùa chay không phải là ăn chay hoặc những kiêng cữ, ngay cả những việc lành nhỏ mọn ta dâng lên Chúa. Đặc điểm chính của mùa chay là chờ đợi trong niềm vui của Thánh Thần.

Theo nghĩa đó, mùa chay cũng còn tiếp tục cả trong mùa phục sinh, vì việc Chúa sống lại không chấm dứt thời gian đợi chờ, thời gian khát vọng, nhưng hướng thời gian đó đi xa hơn điều ta có thể tưởng và quan niệm được. Phục sinh không phải là hoàn tất một ước vọng, một sự sung mãn đã đạt được. Nhưng phục sinh là thời gian vượt quá ước vọng, thời gian ước vọng xuất thần ra khỏi chính mình.

Thực vậy, điều làm ta chú ý khi đọc các trình thuật về những lần Đấng Phục Sinh hiện ra, đó là dường như những lần hiện ra ấy muốn dẫn đưa ước vọng của các môn đệ về một hướng khác. Những lần hiện ra ấy giúp những ai đang  ước ao gặp lại Chúa Kitô bằng xương bằng thịt biết dần dần nhận ra họ phải đi gặp Chúa Kitô bằng Thần Khí. Phục sinh làm nổ tung những chân trời hạn hẹp của các Tông Đồ, các phụ nữ quây quần bên Chúa Kitô, để mở cho họ những nhãn giới chưa bao giờ được biết đến. Từ nay sẽ chẳng còn gì như trước nữa!

B – Ngày 31.7

Trong tu luật thánh Biển Đức, mùa chay là thời gian vui mừng. Ở chương nói về mùa chay ta vừa đọc, từ “gaudium” (niềm vui) được nhắc tới hai lần, ở câu 6: “trong niềm vui của Thánh Thần”, và ở câu 7: “để tâm hồn hân hoan mong đợi”. Từ này chỉ gặp hai lần nữa ở những chương khác. Ở chương 2, thánh Biển Đức bảo viện phụ sẽ vui mừng vì đoàn chiên tăng số (c.32), và ở chương 7, câu 39 (“họ mừng rỡ tiếp lời”) liên quan tới “những điều cam go trái ý và bất cứ sỉ nhục nào” (c.35).

Với thánh Biển Đức, đây không phải là thứ vui vẻ tầm thường. Nhưng là niềm vui có được nhờ những hy sinh, khổ chế trong mùa chay. Niềm vui này không phải là trái nghịch với đau khổ, nhưng vượt qua đau khổ, siêu thoát trên đau khổ. Niềm vui đích thực, niềm vui của Thánh Thần, không thể bị bất cứ khó khăn nào, bất cứ biến cố đau thương nào dập tắt. Nó không hề giống với thứ hạnh phúc bình thường mà tất cả ta đều trải qua. Niềm vui này đến từ bên kia những khó khăn và khổ cực.

Đó là lý do khiến thánh Biển Đức nhấn mạnh tới niềm vui ngay trong mùa chay: tưởng niệm cuộc Khổ Nạn Chúa trước khi cử hành lễ Phục Sinh (c.7). Vì niềm vui đích thực, niềm vui của Thánh Thần, giả thiết phải có cuộc Vượt Qua: vượt qua cái chết để tới Phục Sinh. Niềm vui là một hồng ân, hồng ân thứ hai của Thánh Thần (Gl 5,22), một hồng ân đòi phải có từ bỏ. Nó đòi phải từ bỏ quyền lực độc đoán, từ bỏ ý muốn bắt cuộc đời, mọi biến cố, mọi người phải như ta mong ước. Chỉ có niềm vui đích thực khi ta chấp nhận đau thương, sẵn lòng từ bỏ mọi sự.

C – Ngày 30.11

Với thánh Biển Đức, cuộc chiến lớn của đan sĩ là cuộc chiến chống lại tính chểnh mảng, phải huy động tất cả sức lực, suốt cả năm, nhưng cách riêng trong những thời kỳ đặc biệt như mùa chay. Không chỉ từ bỏ những con đường không lối thoát mà ta đã đi lạc vào, nhưng còn phải tập trung sức lực, phải quyết liệt vươn lên.

Thực ra, đối với thánh Biển Đức, chểnh mảng là điều trái ngược với “niềm vui thiêng liêng”, cản bước ta trên đường tiến tới niềm vui. Xét cho cùng, ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, với thánh Biển Đức, ý nghĩa tối hậu của mùa chay, cũng như của tất cả đời sống đan tu, chính là khai mở nơi ta những nẻo đường dẫn tới niềm vui.

Quả thực, tất cả ta đều có kinh nghiệm là khi sống theo sự tầm thường, dễ dãi, khi quên đi mất điều gì đã dẫn ta tới đây, ta sẽ mất vui, sẽ buồn bã, u sầu, gắt gỏng. Cuộc sống sẽ ảm đạm và nhàm chán. Ta chẳng còn tha thiết gì nữa.

Vì có một niềm vui, niềm vui sâu xa tự hiến, cho đi tất cả, tiến xa hơn mãi, mỗi lúc mỗi sâu hơn trong việc trao ban chính mình. Đó là con đường ngắn nhất để đi vào niềm vui của khát vọng thiêng liêng. Đó là con đường Đức Maria đã đi. Bài ca Magnificat của Mẹ là bài Thánh Ca của những ai đã đi vào niềm vui của Thiên Chúa.

Chương 50

ANH EM LÀM VIỆC

XA NHÀ NGUYỆN HOẶC ĐI ĐƯỜNG

Ngày 1.4 – 1.8 – 1.12    

1 Anh em làm việc quá xa không thể về đúng giờ kinh trong nhà nguyện được 2 và viện phụ cũng nhận thấy thế, 3 thì hãy lấy lòng kính sợ Chúa mà quì xuống tại nơi làm việc để cử hành phụng vụ giờ kinh. 4 Anh em đi đường cũng vậy, không được bỏ các giờ kinh như luật định, nhưng phải cố gắng đọc riêng tùy sức, đừng trễ nải bỏ bổn phận phụng thờ.

Chú giải:

A – Ngày 1.4

Vì bận công việc hay phải đi đường mà đôi khi đan sĩ khó giữ được đầy đủ các giờ kinh. Trong chương này, thánh Biển Đức đưa ra một vài cách giải quyết mà ngày nay vẫn còn có thể áp dụng.

Nếu phải làm việc xa nhà nguyện, thánh Biển Đức đề nghị một cách giải quyết rất đơn giản là hiệp thông với giờ kinh của cộng đoàn bằng việc đọc kinh ngay tại chỗ. Cách giải quyết này chẳng có gì phức tạp và mọi người đều có thể thực hiện ở bất cứ nơi nào. Nếu phải đi đường xa, thánh nhân bảo đừng bỏ đọc kinh, nhưng hãy đọc riêng cách kín đáo.

Đó là những lời khuyên giản dị, rất hợp lý, và nhắc nhở ta rằng thần vụ là bổn phận cốt yếu của đời sống đan tu mà ta luôn luôn có thể chu toàn trong mọi hoàn cảnh, theo những cách thức khác nhau. Nhưng ta cần tự hỏi mình có chu toàn không, có quá mải mê công việc mà bỏ quên không, khi đi đường có dành thời giờ đọc kinh không?

Vì vậy, trong cuộc sống cụ thể, ta cần phải không ngừng nhớ tới ơn gọi sâu xa của mình. Ta vẫn luôn có khuynh hướng giảm bớt những điều phải thực hiện. Nhất là nếu ta lại tự coi mình là những con người thiêng liêng và dầy kinh nghiệm. Cuộc sống dạy cho ta hay rằng chính qua những điều nhỏ nhặt rất đơn giản, rất khiêm tốn đó mà ta được chuẩn bị để có những lựa chọn lớn lao.

B – Ngày 1.8       

Với thánh Biển Đức, mắc công việc, ở xa nhà nguyện, đi đường không phải là những lý do để lơ là các giờ kinh thần vụ và cầu nguyện. Trong những trường hợp đó, dù có được giảm bớt, các việc ấy vẫn là cốt yếu trong cuộc sống của đan sĩ.

Cuộc sống đan tu được phân phối nhịp nhàng nhờ các giờ kinh thần vụ. Đó thực sự là những điểm mốc, những điểm tựa Archimède giúp ta nâng được thế giới lên, làm giảm nhẹ sức nặng của ngày sống và của sức nóng mặt trời. Nếu không, tất cả sẽ trở nên nặng nề, nhàm chán, trống rỗng và không thể chịu nổi.

Kinh nghiệm cho hay chính vì không tôn trọng những điểm mốc đó mà cuộc đời đan sĩ bắt đầu sinh ra chểnh mảng. Tiếp theo là mọi sự sẽ bị buông lỏng dần. Nếu sinh ra chán nản, ta sẽ liều mình bị mất thăng bằng từ trong nội tâm, bị chao đảo suốt cả đời.

Thật là khó mà ngừng lại một lúc để đọc kinh trong khi đang đi đường. Có đủ thứ lý do: phải đi cho kịp giờ, phải tránh bị kẹt đường, phải tiết kiệm thời gian. Nhưng chỉ cần thử dừng lại một lần ta sẽ thấy điều mình nhận được từ đó là vô cùng quí giá. Chẳng bao giờ ta bị thua thiệt khi chọn Chúa trước hết. Không phải vì muốn chọn Chúa mà ta tới đây sao?

C – Ngày 1.12

  Trong chương ngắn này, nói về các anh em làm việc xa nhà nguyện hoặc đi đường, thánh Biển Đức xử lý một xung khắc giữa các bổn phận xem ra rất thường xẩy đến trong đời sống đan tu: thần vụ và công việc. Có bó buộc phải đi dự thần vụ, mặc dầu đang mắc công việc gấp phải làm cho xong không? Có phải dành ưu tiên cho công việc, để phục vụ cộng đoàn, và đặt thần vụ vào hàng thứ yếu không? Tôi sẽ đi đọc kinh nếu có thể? Ở đây thánh Biển Đức đề xuất hai ý tưởng quan trọng: họ sẽ cử hành giờ kinh tại nơi làm việc, và họ đừng lơ là bỏ qua bổn phận phụng thờ.

Họ sẽ chu toàn việc phụng thờ Chúa ở ngay nơi làm việc. Nếu đan sĩ không thể đến nhà thờ để đọc kinh, thì bất cứ đang ở nơi nào họ vẫn có thể hiệp nhất bằng một cách đặc biệt với cộng đoàn qui tụ trong nhà thờ. Thánh Biển Đức đề nghị họ lấy lòng kính sợ Chúa mà quì gối đọc kinh. Bắt cứ làm công việc gì, hoặc đi đường, đều không được miễn chước cho khỏi cầu nguyện. Ta lưu ý rằng thánh Biển Đức không bó buộc phải theo cách thức nào, nhưng ngài yêu cầu đan sĩ dành thời gian trở về với lòng mình. Vì một trong những lý do hiện hữu của các giở thần vụ là khởi động lại sự chăm chú nội tâm. Với điều kiện này, thiết tưởng công việc có thể thực sự trở thành kinh nguyện, nhưng cũng thực sự phục vụ cộng đoàn.

Quả vậy, chẳng ai không cho rằng làm việc là điều hữu ích. Nhưng phải chăng làm việc luôn luôn là để phục vụ cộng đoàn, và do đó phụng sự Chúa? Phải chăng làm việc là phục vụ? Hay đơn thuần chỉ làm vì phải làm? Không luôn luôn dễ mà phân định, vì khi có trách nhiệm về bất cứ công việc gì, ta khó mà ngưng lại được. Làm sao biết đâu là ranh giới giữa phục vụ và công việc cá nhân? Một lần nữa, thánh Biển Đức đưa ra một tiêu chuẩn để phân định: “nếu viện phụ xét thấy như vậy”. Nếu thực sự tôi phục vụ, tôi sẽ phản xạ như người phục vụ, nghĩa là nghe theo người khác. Nếu tôi nhắm tư lợi, tôi sẽ bị quấy rầy trong công việc tôi đang làm. 

Trong đời sống đan tu từ ít năm nay, chúng ta đã nhấn mạnh nhiều đến giá trị kinh tế của công việc (mưu sinh, trợ giúp người nghèo…) và về những ràng buộc của công việc (sự liên đới với những người lao động). Nhưng dường như người ta hay quên mất chiều kích thiêng liêng của công việc, theo chiều kích này công việc là con đường hoàn thiện nội tâm. Cách ta làm việc cũng quan trọng, nếu không hơn thì ít ra như công việc ta làm. Đối với mỗi người chúng ta, công việc có phải là con đường cầu nguyện nội tâm và phục vụ cộng đoàn không?

Chương 51

ANH EM ĐI ĐƯỜNG KHÔNG XA MẤY

Ngày 2.4 – 2.8 – 2.12   

1 Anh em đi đường vì một công tác nào đó và hy vọng có thể trở về đan viện trong ngày, thì đừng tự tiện ăn uống ở ngoài, cho dù có ai khẩn khoản mời đi nữa, 2 trừ khi viện phụ cho phép. 3 Ai vi phạm sẽ bị tuyệt thông.

Chú giải:

A – Ngày 2.4

Trong chương 50 và 51 thánh Biển Đức nêu lên những lý do khiến đan sĩ phải đi ra ngoài đan viện, hoặc lâu dài hoặc một thời gian ngắn. Khi đan sĩ đi đường xa, thánh nhân muốn họ hiệp thông với cộng đoàn mà đọc kinh vào những giờ đã định. Trái lại, khi đan sĩ vắng nhà trong thời gian ngắn, ngài nhấn mạnh tới một phương diện khác, đó là tham dự giờ cơm chung với anh em.

Hai điểm này: tham dự giờ kinh và tham dự bữa ăn cũng là những điểm thánh Biển Đức nhắm tới khi nói về hình phạt tuyệt thông. Như vậy, đối với thánh nhân, đó là hai sự kiện cốt yếu cho thấy sự hiệp thông của anh em với cộng đoàn.

Thánh Biển Đức yêu cầu anh em không tự tiện dùng bữa bên ngoài đan viện. Yêu cầu này có một ý nghĩa sâu xa: nó cho thấy thế gian không phải là “đồng cỏ xanh tươi” nơi mà đan sĩ có thể “nghỉ ngơi yên hàn”. Khi ra ngoài đan viện, đan sĩ chỉ là kẻ qua đường trong khoảng thời gian cần thiết nào đó, rồi lại mau chóng trở về. Chương 51 chỉ là một nhắc nhở về sự thật hết sức đơn giản đó thôi.

B – Ngày 2.8

Lúc đầu khi mới vào đan viện, người tu sĩ trẻ thường rất để ý xa lánh thế gian, gia đình, bạn hữu. Không biết rõ tại sao, nhưng anh cảm thấy những giao tiếp với bên ngoài có nguy cơ khiến anh mất đi điều gì cốt yếu. Nhưng với thời gian, khi cuộc sống đều đặn trôi, phần đông chúng ta lại tái lập cả một mạng lưới liên lạc với gia đình hoặc với những người khác. Bằng cách nào đó, sự xa vắng đã làm cho những tương quan trước kia trở nên sâu đậm hơn, và ta lại quan tâm hơn trước tới những người ta đã từ bỏ.

Hẳn là có nhiều lý do. Trước hết đời sống đan tu kích thích một hình thức tình cảm nào đó mà những ồn ào náo động của thế gian đã làm tê liệt đi. Khả năng yêu thương và được yêu thương nơi ta thức tỉnh. Khi ấy có thể ta sẽ bị cám dỗ tìm kiếm ở bên ngoài những gì ta không gặp được trong đan viện. Đó là cách dễ dàng để thoát khỏi cuộc sống thanh vắng. Ta nên cẩn thận đề phòng.

Có thể cũng có một lý do khác thuộc một lãnh vực khác hẳn với lãnh vực tình cảm hời hợt. Nếu được sống cách sâu sắc, đời sống đan tu sẽ khơi dậy nơi tâm hồn đan sĩ lòng thương cảm vô bờ bến đối với tất cả tạo thành. Như thể tạo vật cụ thể có được một ý nghĩa sâu xa mới, như thể đan sĩ khám phá ra được tiềm lực thâm sâu của chúng. Đan sĩ nhìn thế giới bằng cặp mắt khác. Lòng họ tan vỡ vì nỗi lầm than đau khổ của con người.

Không dễ mà phân định được điều gì thực sự tác động trên ta, tình cảm hay lòng trắc ẩn? Ta chẳng biết gì về mình. Bởi thế, trong chương 51 này thánh Biển Đức nêu ra cho đan sĩ một tiêu chuẩn: để cho người khác, tức là viện phụ, xét định. Chỉ ai có tâm hồn của người môn đệ mới tìm ra được đường ngay nẻo chính.

C – Ngày 2.12:

Đôi khi ta có cảm tưởng quan niệm của thánh Biển Đức về vâng phục quá chặt chẽ tới độ đi vào những chi tiết nhỏ nhất. Do đó, trong chương này, thánh nhân nói thẳng về đan sĩ tự do ăn uống bên ngoài đan viện mà không có phép, trong khi chẳng xa nhà bao nhiêu.

Để giải thích chương này, người ta đã nhắc tới bối cảnh lịch sử ngõ hầu biện hộ cho thánh Biển Đức. Tuy nhiên, nếu xem xét cách khách quan điều ngài nói, ta đều nhớ đã có những đan sĩ mất ơn gọi vì những tương quan với bên ngoài, hay có cả những cộng đoàn bị phân hóa khi các đan sĩ sống nước đôi.

Như vậy là ta đã hiểu được sự nghiêm khắc của thánh Biển Đức. Một lúc nào đó trong đời đan tu, tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về sức nặng của đời sống chung, và chúng ta mơ tưởng đến một cái gì khác, đến những tương quan khác. Cơ hội không thiếu, và khi ấy rất dễ tìm ra lý do để khỏi phải xin phép. Tóm lại là mình đã trưởng thành rồi!

Trong chương 51 này, thánh Biển Đức đề phòng ta khỏi cái tự do sai lầm, mà thay vì cho ta được tự do đích thực, nó lại chỉ đưa ta xa khỏi mục đích của đời ta. Có những lúc chẳng còn gì giữ ta lại đan viện nữa! Chẳng còn gì, ngoại trừ sợi giây vô hình của một tình yêu mà ta không còn cảm nhận được nữa. Khi ấy, việc xin phép đòi ta phải cố gắng phi thường, nhưng cũng lại là hành vi tự do đẹp nhất ta chưa từng thực hiện.

Chương 52

NHÀ NGUYỆN CỦA ÐAN VIỆN

 Ngày 3.4 – 3.8 – 3.12    

1 Nhà nguyện phải đúng với danh xưng nhà nguyện, trong đó không được làm gì khác ngoài việc cầu nguyện hay để vật gì không cần thiết cho việc ấy. 2 Giờ Thần Vụ vừa xong, mọi người triệt để im lặng đi ra với hết lòng cung kính Chúa, 3 để anh em nào muốn cầu nguyện riêng khỏi bị phiền hà ngăn trở. 4 Còn những lúc khác, ai muốn cầu nguyện âm thầm một mình, cứ đơn sơ vào cầu nguyện, không lớn tiếng ồn ào, nhưng với nước mắt và lòng chân thành. 5 Vậy, ai không giữ như thế, sẽ không được ở lại nhà nguyện sau giờ Thần Vụ, như cha đã nói, để khỏi làm phiền người khác.

Chú giải:

A – Ngày 3.4

Theo thánh Biển Đức, hai lý do căn bản của thinh lặng nơi nguyện đường là tôn kính Chúa (c.2) và tôn trọng người khác (c.3-5). Như vậy, nếu ta giữ thinh lặng trong nguyện đường ấy là vì ta chú tâm đến Chúa và quan tâm đến anh em. Giữ thinh lặng như thế không phải chỉ là chuyện giữ luật, nhưng nhất là để mở lòng ra với người khác, để có khả năng dẹp bỏ đi những bận tâm nhỏ nhặt của riêng mình nhờ ý thức về sự hiện diện của người khác.

Điều đó không chỉ đúng cho việc cầu nguyện trong nhà thờ. Ta đều biết nhà nguyện hay nhà thờ là để cầu nguyện, và thực ra mọi nơi cũng như mọi sinh hoạt trong đan viện đều có thể trở nên nơi gặp gỡ Chúa, nơi tràn ngập sự hiện diện của ngài. Vì thế cũng phải cẩn thận, đừng làm cho khoảng không gian thánh thiêng này trong cuộc sống của ta trở nên ồn ào và ngổn ngang đủ thứ.

Theo truyền thống thì nhà nguyện hữu hình bên ngoài là hình ảnh của cung thánh nội tâm, nơi mà Chúa Giêsu hứa sẽ đến cư ngụ. Những bức tường của cung thánh này cũng được xây nên bằng sự tôn kính Chúa và tôn trọng người khác.

Ở câu 4, thánh Biển Đức lưu ý rằng có sự liên kết thâm sâu giữa thinh lặng, sự tôn trọng người khác và tâm hồn chăm chú. Sự xáo động, lắm lời không thể nào thích hợp cho việc cầu nguyện. Nhưng thinh lặng bên ngoài không đủ để giúp ta có được thinh lặng nội tâm. Và ta cần tự hỏi thinh lặng có nghĩa gì nếu ta không quan tâm đến Chúa và anh em mình. Vì thinh lặng là việc của tình yêu, của tâm hồn rộng mở để yêu thương, rộng mở để mưu tìm ích lợi cho người khác.

B – Ngày 3.8 

  “Để khỏi làm phiền người khác” (c.5). Lời thánh Biển Đức nhắc nhở đó, khi nói về nhà nguyện, thực ra áp dụng được cho cả cuộc sống ta. Thoạt tiên, điều đó có vẻ chỉ như là một qui tắc lịch sự sơ đẳng, nhưng khi thấy thánh Biển Đức nhắc đi nhắc lại tới hai lần ta nghĩ ngay là lời nhắc nhở ấy mang một chiều kích khác.

Và thánh Biển Đức không chỉ nhắm tới kẻ gây ngăn trở cho người khác, không để họ cầu nguyện (c.3), nhưng ngài cũng muốn nói tới cả những ai cầu nguyện nhưng lại làm phiền anh em (c.4-5). Trong cả hai trường hợp, dù cầu nguyện hay không thì những người như thế vẫn có điều thiếu sót và gây khó chịu.

Quả thực, trong hai trường hợp ấy, điều thiếu sót đó là thiếu tôn trọng người khác, và điều gây khó chịu là sự lấn lướt của cái tôi ồn ào ba hoa. Ở đây, thánh Biển Đức muốn nhấn mạnh tới việc đề cao mình khiến ta không quan tâm đến người khác nữa, khiến ta tự giam hãm mình nơi bản thân ích kỷ. Và thánh Biển Đức lưu ý rằng điều ấy có thể xẩy ra cho cả những người năng cầu nguyện hay đúng hơn là tưởng mình cầu nguyện.

Ta có thể có lý khi tự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại nhấn mạnh tới việc quan tâm đến người khác trong chương nói về nhà nguyện. Ngài có thể làm như thế trong những chương nói về nhà cơm, về lao động hay về việc giữ thinh lặng, và như vậy xem ra hữu lý hơn chứ. Tại sao ngài lại muốn nêu cao tầm quan trọng của người khác khi đề cập tới một việc hết sức cá nhân là cầu nguyện riêng? Và tại sao ngài làm thế ở một chỗ ít ai ngờ tới như vậy?

Thánh Biển Đức làm thế là để nói rằng sự quan tâm, tôn trọng và tình yêu đối với người khác là tiêu chuẩn cho tính xác thực của tiến trình thiêng liêng. Những ứng xử trên đây chứng minh cho thực chất và sự sâu sắc của đời sống thiêng liêng nơi tâm hồn đan sĩ. Và đó là chuyện bình thường, vì, như thánh Gioan Thánh Giá nói: “Ta sẽ bị xét xử căn cứ theo tình yêu”.

C – Ngày 3.12

Thánh Biển Đức bảo: “Nhà nguyện phải đúng với danh xưng nhà nguyện”, nghĩa là nhà cầu nguyện. Nhưng nhà nguyện đầu tiên chính là nhà nguyện nội tâm của ta, là lòng trí ta. Mà biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu tiếng động tràn vào phá vỡ sự yên tịnh trầm lắng của ngôi nhà nguyện này còn hơn cả nhà nguyện của đan viện chúng ta nữa.

Đời sống đan tu đòi hỏi ta phải mỗi ngày mỗi làm cho nhà nguyện nội tâm và nhà nguyện bên ngoài, nhà nguyện của đan viện, trở nên đồng hình đồng dạng với nhau. Nhà nguyện bên ngoài giúp ta dần dần biến đổi nhà nguyện nội tâm, biến đổi chiều sâu của tâm hồn ta. Ngày nào đó, lời ta nghe sẽ mở ra một con đường dẫn vào tận nơi sâu thẳm nhất của hữu thể ta. Những cử chỉ, những thái độ, những cách ứng xử bên ngoài sẽ dần dần khai thông những quá tải không thể ngờ trước của trí tưởng tượng. Như thế, sự quan tâm cử hành tốt phụng vụ bên ngoài sẽ kết thúc bằng việc thanh tẩy phụng vụ bên trong.

Đó là ý tưởng lớn được Gioan Cassiano quảng diễn trong bài Thuyết giáo 4. Tội lỗi đã ném con người ra khỏi bản thân họ, họ không còn đến được với Lời ghi khắc trong lòng họ nữa. Khi ấy Thiên Chúa đã ban cho ta điều ngài gọi là “Kinh Thánh viết”, Kinh Thánh bên ngoài, dần dần đưa ta lại với Kinh Thánh bên trong, đẫn ta đi trên con đường ngược chiều với con đường tội lỗi.

Vào một thời điểm nào đó, sẽ là thích hợp khi coi khinh cái bên ngoài để chỉ lo đến đời sống bên trong. Sự khôn ngoan của các bậc cao niên dậy ta rằng đời sống đan tu có mục đích tái tạo sự thống nhất nơi con người. Sự biến đổi bắt đầu từ bên ngoài và kết thúc bằng việc đạt tới nơi sâu thẳm của con tim.

Chương 53

VIỆC TIẾP ĐÓN KHÁCH

 Ngày 4.4 – 4.8 – 4.12   

1 Mọi khách đến đan viện phải được đón tiếp như Chúa Kitô, vì chính Người đã nói: “Ta là khách và các con đã đón tiếp Ta”. 2 Phải tỏ lòng tôn trọng xứng hợp với từng người, nhất là những người phục vụ Tin Mừng và khách hành hương. 3 Vậy, vừa khi được tin khách đến, bề trên hoặc anh em hãy hết tình bác ái mà mau mắn đi đón khách, 4 hãy cùng nhau cầu nguyện trước đã rồi mới hôn chúc bình an. 5 Cầu nguyện trước khi hôn chúc bình an là để tránh những phỉnh gạt của ma quỷ. 6 Ta hãy hết lòng khiêm tốn chào hỏi khách đến cũng như khách đi. 7 Hãy cúi đầu hoặc phủ phục thờ lạy và đón tiếp Chúa Kitô nơi quý khách. 8 Khi đã đón chào, hãy dẫn khách đi cầu nguyện, sau đó bề trên hoặc người được bề trên chỉ định ở lại tiếp khách. 9 Hãy đọc luật Chúa cho họ nghe để mưu ích cho họ, rồi ân cần tiếp đãi. 10 Vì có khách nên bề trên khỏi giữ chay, trừ phi đó là ngày chay buộc, 11 anh em khác vẫn giữ chay như thường. 12 Viện phụ đưa nước cho khách rửa tay, 13 viện phụ và cả cộng đoàn cùng rửa chân cho khách. 14 Rửa xong thì đọc câu này: “Lạy Chúa, chúng con đã đón nhận lòng thương xót Chúa ngay giữa đền thánh Chúa”. 15 Với người nghèo và khách hành hương, ta phải hết sức ân cần đón tiếp, vì hơn nơi ai khác chính nơi họ mà ta đón tiếp Chúa Kitô. Còn về người giầu, nguyên việc kính nể đã làm ta tôn trọng họ.

Chú giải:

A – Ngày 4.4

Trong chương 53 này, ba lần thánh Biển Đức nói về khách bằng câu: “Nơi họ, ta tiếp đón Chúa Kitô” (c. 1,7,15). Điều này có hai hệ quả: khách phải được đối xử với lòng khiêm tốn thẳm sâu (c.6) và đầy tính nhân bản (c.9). Vì lòng khiêm tốn và tính nhân bản là hoa trái quan trọng nhất phát sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô cách đích thực. Đó là dấu hiệu cho thấy tính xác thực của mọi kinh nghiệm nội tâm.

Trước hết, khiêm tốn là ý thức về thực tại nơi ta, về con người thật của ta, vì việc gặp gỡ Chúa Giêsu sẽ đặt ta vào đúng chỗ của ta. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu sẽ lật ta khỏi tượng đài và giúp ta ý thức được ta là ai.

Tiếp đến, tính nhân bản là kết quả của kinh nghiệm thiêng liêng đích thực: chỉ Thiên Chúa mới nhân bản, chỉ mình ngài biết nhân bản nghĩa là gì, và khi đến nhập thể trong xác thịt ngài không chỉ đến dậy ta biết ngài, nhưng cũng đến tỏ cho ta thấy ta là ai. Không có ngài, ta sẽ luôn xa lạ với chính mình, vì chỉ nơi khuôn mặt Chúa Kitô ta mới có thể khám phá ra căn tính thật của mình.

Như vậy, khách là người mặc khải cho ta con đường của riêng ta. Nhưng, một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là khách. Cách ta tiếp đón anh em trong cộng đoàn cũng tỏ cho ta thấy ta là ai. Khách là tấm gương soi để mỗi cá nhân nhìn thấy nơi đó khuôn mặt thật của mình, nhưng cũng là gương soi cho cộng đoàn nữa, vì khách giúp ta thấy được con đường ta còn phải đi để một ngày nào đó ta cũng được tiếp đón vào Nước Trời.

B – Ngày  4.8   

Hai lần, ở câu 5 và câu 8 của chương 53 này, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới mối tương quan sâu sắc giữa việc tiếp đón khách và cầu nguyện. Trước hết, phải đánh tan những phỉnh gạt của ma quỉ; sau đó, cử chỉ đón tiếp đầu tiên là mời khách đi cầu nguyện.

Ngày nay, các hình thức tiếp đón đã thay đổi. Nhưng dầu sao, những ai đến với ta đều mong được đón tiếp vào một đan viện. Nếu không thì họ đã tìm đến một nhà nghỉ nơi thôn dã, một khách sạn hay một nhà trọ nào đó rồi. Vậy, hãy luôn luôn tâm niệm rằng việc ta tiếp đón khách phải thấm nhuồn tinh thần cầu nguyện, phải được nhào nặn nên bằng cầu nguyện.

Quả thực, điều thánh Biển Đức nói ở câu 5, khi lưu ý rằng cầu nguyện giúp ta “tránh những phỉnh gạt của ma quỉ”, vẫn luôn luôn hợp thời. Và những phỉnh gạt này, trước khi có nơi người khách thì đã có trong lòng ta rồi. Để hãm dẹp nhu cầu muốn lân la tới nhà khách và nói chuyện với khách thì không gì hiệu nghiệm cho bằng cầu nguyện.

Vì một trong những vai trò cốt yếu của cầu nguyện là vạch trần sự dối trá nơi ta, đặt ta trần trụi trước mặt Chúa và cũng trước mắt ta nữa. Cầu nguyện sẽ kéo ta thoát khỏi ảo tưởng hết sức hão huyền là ta có thể làm ích cho người khác, nhất là cho khách tạm trú, mà thực ra ta chỉ lợi dụng họ để làm thỏa nhu cầu của mình.

Khi tự đối chiếu mình với sự thật nơi mình, cầu nguyện sẽ khiến cho con ếch mà mỗi người mang trong mình xẹp xuống. Con ếch này phùng mang lên và nghĩ mình là con bò, một con bò thiêng liêng!

C – Ngày 4.12

Trong chương về việc đón tiếp khách, ba lần thánh Biển Đức nói đón tiếp khách là đón tiếp Chúa Kitô. Ở câu 1: khách được đóp tiếp như Chúa Kitô; ở câu 7: phủ phục dưới đất để thờ lạy Chúa Kitô nơi khách; ở câu 15: hơn nơi ai khác, chính nơi họ mà ta đón tiếp Chúa Kitô.

Khi đọc chương này tự nhiên ta nghĩ ngay tới những người khách đến với đan viện, những người ngoài mà ta tiếp đón. Nhưng có lẽ chương này cũng có thể hiểu về mỗi anh em trong cộng đoàn khi họ giao tiếp với ta.

Thật là khó mà nhận ra được Chúa Kitô đến với ta nơi người anh em. Theo thánh Biển Đức thì đây không phải là vấn đề tự kỷ ám thị, nhưng là biết để ý, là đổi mới cái nhìn. Phải biết nhìn qua cái dáng vẻ bên ngoài của người anh em để nhận ra được Chúa Giêsu đang lặng lẽ, kín đáo và ẩn khuất hiện diện nơi cõi thâm sâu của lòng họ. Điều này đòi ta phải vận dụng đức tin: dám tin nơi người khác hơn cả chính họ tin nơi họ, dám nhìn họ không phải như họ tự nhìn mình, nhưng như Thiên Chúa nhìn họ.

Nhưng chỉ làm được vậy, nếu trước tiên đã cảm nghiệm nơi mình mầu nhiệm hiện đang có trong mỗi người chúng ta. Cảm nghiệm này vừa đau thương lại vừa có sức giải thoát, vì ta phải chấp nhận cái phần tối tăm không thể hiểu được, nhưng cũng cả phần ánh sáng trong ngần đang có nơi ta; phải chấp nhận rằng ta không thể hiểu được chính bản thân mình.

Muốn thay đổi cái nhìn cần phải thanh tẩy con tim. Chúa Giêsu đã nói chỉ con tim trong sạch mới có thể nhận ra ngài, vì “Phúc cho những ai có lòng trong sạch, họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”.

Ngày 5.4 – 5.8 – 5.12

16 Nhà bếp cho viện phụ và khách phải riêng biệt, để khi bất chợt khách đến sẽ không gây phiền hà cho anh em, vì không bao giờ đan viện thiếu khách. 17 Mỗi năm hãy cử hai anh em có khả năng chu toàn việc phụ trách nhà bếp cho khách. 18Khi cần thì cho thêm người giúp, để các anh em ấy phục vụ mà không phàn nàn; nhưng khi không bận lắm, các anh em ấy đi làm việc khác như đã chỉ định. 19 Điều này không những áp dụng cho các anh em làm bếp khách mà còn cho mọi công tác khác của đan viện: 20 khi cần, sẽ cho thêm người giúp và khi rảnh thì đi làm việc được định. 21 Phòng khách cũng vậy, phải trao cho một anh em có lòng kính sợ Chúa. 22 Phòng khách phải được trang bị giường chiếu đầy đủ, và nhà Chúa phải có những người khôn ngoan quản trị cách khéo léo. 23 Đừng ai tiếp xúc hay chuyện trò với khách khi chưa có phép. 24 Nếu gặp khách hay trông thấy khách, hãy khiêm tốn chào họ như cha đã nói, và xin họ chúc lành mà đi, hãy nói cho họ biết là mình không được phép truyện trò với khách.

Chú giải:

A – Ngày 5.4

 Thánh Biển Đức qui định một số nguyên tắc đơn giản và luôn luôn thức thời về việc đón tiếp khách. Nguyên tắc thứ nhất đã được nói tới ở đoạn trước, đó là khi tiếp đón khách ta đón tiếp chính Chúa Kitô. Ở đoạn này, thánh Biển Đức nêu hai nguyên tắc nữa có tính cụ thể hơn.

Nguyên tắc thứ nhất trong hai nguyên tắc này có thể được gọi là nguyên tắc tách biệt. Theo nguyên tắc này, phải có nhà ở riêng và bếp riêng cho khách. Rồi khách không đi vào khu vực của đan viện dành riêng cho đan sĩ; cũng thế, các đan sĩ không qua lại khu dành riêng cho khách. Nguyên tắc tách biệt còn đi xa hơn nữa, khi thánh Biển Đức bảo các đan sĩ không tiếp xúc và truyện trò với khách.

Nguyên tắc cụ thể thứ hai là duy một mình viện phụ và những anh em được chỉ định mới lo cho khách, tới độ viện phụ phải thường xuyên dùng bữa với khách, nhưng ngày nay không còn vậy nữa. Như thế, cùng với nguyên tắc tách biệt, thánh Biển Đức thêm nguyên tắc chuyên biệt, tức là chỉ những anh em được chỉ định trong một thời gian nào đó, như thánh nhân nói, mới chuyên lo cho khách. Chứ không có chuyện anh em nào cũng tự ý gặp gỡ truyện trò với khách và săn sóc họ.

Ngày nay ba nguyên tắc căn bản này vẫn còn được áp dụng tại nhà khách chúng ta. Khách được tiếp đón như Chúa Kitô, họ ở nơi riêng biệt và có những anh em được giao nhiệm vụ chuyên lo cho họ. Cứ theo ba nguyên tắc này để biết việc đón tiếp khách có được thực hiện tốt hay không.

B – Ngày 5.8

Kinh nghiệm cho ta thấy không phải luôn luôn dễ dàng có được thái độ đúng đắn đối với khách. Trong chương này, thánh Biển Đức nêu cho ta một số tiêu chuẩn để tránh hai mối nguy rình rập mọi cộng đoàn đan tu: đó là tự khép kín nơi mình hoặc phân tán ra bên ngoài.

Qui luật đầu tiên thánh Biển Đức ấn định như sau: người có trách nhiệm đón tiếp khách chính là viện phụ. Ngài phải quan tâm để khách được đón tiếp đúng theo qui định, nghĩa là viện phụ phải vạch ra những giới hạn và qui cách cho việc đón tiếp.

Theo qui luật thứ hai do thánh Biển Đức ấn định, viện phụ có trách nhiệm đón khách, nhưng không phải ngài tự lo hết mọi sự. Một anh em sẽ được ủy thác công việc nhà khách và có bổn phận chăm sóc khách về vật chất cũng như tinh thần.Và anh em này lại có những anh em khác giúp đỡ.

Sau cùng, qui luật thứ ba được gồm tóm trong ít lời như sau: ai không được viện phụ trao trách nhiệm lo cho khách thì không phải bận tâm đến họ. Vì ơn gọi của ta đòi phải cẩn trọng như thế. Đó là cách làm chứng về Chúa hiệu quả hơn mọi thứ ngôn từ.

C  – Ngày 5.12

Tương quan với khách được hiểu theo hai nghĩa. Ở phần thứ nhất của chương này, thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc khách được đón tiếp như Chúa Kitô: “Ta là khách và các con đã đón tiếp Ta”. Sau đó, thánh Biển Đức duy trì một khoảng cách đối với khách: có nhà bếp riêng cho khách; một anh em có lòng kính sợ Chúa được ủy thác việc chăm sóc họ; khách ở một khu riêng biệt; anh em không tiếp xúc và nói chuyện với khách; nếu gặp khách, anh em cúi chào và xin khách chúc lành cho rồi đi, vì không được phép nói chuyện với khách.

Thánh Biển Đức muốn khách được đón tiếp như Chúa Kitô, nhưng không vì họ mà đời sống đan tu bị xáo trộn. Cũng một vấn đề đã được nói đến ở chương 51: thánh Biển Đức không chối bỏ sự thương cảm theo tinh thần Phúc Âm, nhưng ngài không chấp nhận sự kiện có những anh em do chưa làm chủ được tình cảm mà cứ thích lân la trò truyện với khách, để lấp đầy cái trống vắng trong tâm hồn mình.

Vấn đề là phân định được điều gì thực sự tác động trên ta, là tìm biết sự thật về mình. Ở chương 51, thánh Biển Đức cho ta một tiêu chuẩn để phân định, đó là phán đoán của viện phụ. Trong chương này thì qui luật của đan viện chi phối các tương quan với khách. Sẽ luôn luôn có những người viện lẽ nọ lẽ kia để tự biện minh mà chiều theo khuynh hướng của lòng mình. Tuy nhiên, khi giúp ta sống thật với mình, thánh Biển Đức tìm cách làm tăng trưởng điều tốt nhất nơi ta, để dần dần nguồn cảm tính phong phú nơi ta được biến đổi thành ân sủng.

Thánh Biển Đức không hề thích thú muốn kìm hãm ta, nhưng ngài muốn giúp ta khám phá ra con đường tự do của Phúc Âm, một con đường đòi hỏi ta trước hết phải được giải thoát khỏi chính mình. Đó là điều kiện để có tình yêu đích thực.

Chương 54

ĐAN SĨ CÓ ĐƯỢC NHẬN

THƯ TỪ HAY TẶNG VẶT KHÔNG?

Ngày 6.4 – 6.8 – 6.12    

1 Không có phép viện phụ, đan sĩ không được nhận hay trao gửi thư từ, quà biếu, hay một tặng vật nhỏ nào, dù là của cha mẹ, của bất cứ ai, ngay cả của anh em đồng tu. 2 Nếu cha mẹ cho gì cũng đừng tự tiện nhận, trừ khi đã trình viện phụ trước. 3 Dù viện phụ cho phép nhận thì ngài cũng có quyền cho ai tùy ý. 4 Anh em được tặng đừng buồn kẻo sinh dịp cho ma quỷ. 5 Ai tự tiện làm thể khác sẽ bị phạt theo luật.

Chú giải:

A – Ngày 6.4

Đức khó nghèo đan tu được diễn tả trọn vẹn trong chương 54 này. Nhân đức ấy hệ tại hai điều cơ bản: nhận và cho. Không nhận, không cho là đủ để giữ gìn ta khỏi chước cám dỗ thu tích của cải, khỏi chước cám dỗ lấp đầy cái trống rỗng mà đời đan tu tạo ra. Dầu vậy, mọi người chúng ta đều cảm thấy thích thú khi cho đi, chẳng hạn một thanh sôcôla nhận được ở nhà cơm, hay tặng một anh em món quà ta cho là quí, hoặc gắn bó với những vật mà người nọ người kia đã làm quà cho ta.

Vì sự vật có giá trị nhiều ít tùy theo mối tương quan nó giúp tạo nên. Sao có thể làm bạn được với ai nếu không trao tặng họ cái gì? Sao có thể chứng tỏ mình quí mến họ nếu từ chối cái họ muốn tặng mình? Xét cho cùng, nhận hay cho đều là những cách hiện hữu trước mặt người khác. Nhưng đó lại gần như là một cách đánh mất mình. Tôi tưởng rằng tôi có giá trước mặt người khác nhờ món quà tôi cho đi hay nhận được!

Nếu thánh Biển Đức không chấp nhận việc đan sĩ cho hay nhận, không phải vì ngài coi thường mối tương quan với người khác. Mà còn trái lại. Ngài cho mối tương quan ấy một giá trị lớn tới nỗi không sự vật nào có thể diễn đạt cho đúng được. Không mua được tình yêu cũng không bán được tình yêu, vì tình yêu là vô giá. Ta có dám tin rằng mình đáng yêu, ngay cả khi không có gì để tặng nhằm mua được thiện cảm của người khác chăng? Ta có biết cách làm cho người khác hiểu rằng ta quí mến họ mà chẳng cần trao đổi tặng vật gì không? Đó là vấn nạn thánh Biển Đức muốn nêu lên cho ta.

B – Ngày 6.8

Thánh Biển Đức kết thúc những chương nói về tương quan với người ngoài đan viện khi đề cập tới vấn đề quà tặng. Ta có thể xét tới một món đồ theo nhiều quan điểm khác nhau. Món đồ tự nó có giá trị căn cứ theo tính hữu ích, ta có thể gọi là giá trị khách quan, và theo chất liệu được dùng để chế tạo ra nó. Ở nơi khác, thánh Biển Đức nói tới giá trị ấy khi nhấn mạnh đến hai nguyên tắc cơ bản: -mỗi người phải nhận được (từ viện phụ) những gì họ cần (tính hữu ích); -nhưng phải bằng lòng với những thứ đơn sơ giản dị (chất liệu).

Đồ vật cũng có thể có giá trị chủ quan, gắn liền với những điều nó gợi lên cho ta: một người, một giai đoạn sống, một nơi chốn đã ghi đậm dấu ấn trong ta. Ở trường hợp này, tính hữu ích hay chất liệu không quan trọng nữa, nhưng là sức nặng tình cảm ta đặt nơi đồ vật. Khi ấy đồ vật có giá trị tượng trưng.

Như vậy, món quà có ba chiều kích: tính hữu ích, chất liệu, sức nặng tượng trưng. Trong chương này, thánh Biển Đức không xét tới tính hữu ích hay giá trị của đồ vật, nhưng tới sức nặng tình cảm ta đặt nơi đồ vật ấy. Nhận hay tặng quà, dù rất nhỏ, đó là một cách hiện hữu trước mặt người khác. Như trong những chương trên, ở đây thánh Biển Đức đụng chạm tới một điểm cốt yếu trong cấu trúc của hữu thể con người, đó là cảm tính. “Có” là dấu hiệu cho thấy con người đang mắc bệnh, dấu hiệu con người đang thiếu thốn. Tất cả chúng ta đều bị thiếu quân bình. Nhưng cần ý thức điều đó. Ý thức này là điều kiện cốt yếu cần thiết để có thể lớn lên. Ai tự biện bạch, tự bịt tai khi nghe các chương tu luật được đọc trong những ngày vừa qua là dấu hiệu cho thấy họ vẫn còn bị giam hãm nơi bản thân mình.

Thánh Biển Đức không muốn tố giác ta, biến ta thành tội phạm, nhưng chỉ muốn giúp ta nhìn ra mình rõ hơn. Tu luật hiến cho ta một phương tiện tốt nhất để nhận ra cách sống của mình, giúp ta phân định được những điểm yếu nơi mình, chứ không che đậy chúng bằng những lời biện bạch. Và một khi đã nhận biết những giới hạn nhỏ bé nơi bản thân, ta sẽ có thể thoát ra để đạt tới con người đích thực của mình.

C – Ngày 6.12

Những tiếng đầu tiên của chương 54 này “nullatenus liceat” (hoàn toàn cấm) giống như một lệnh cấm không thể thay đổi thánh Biển Đức nói với mỗi đan sĩ: cấm nhận bất cứ cái gì. Ta thấy lệnh cấm này có vẻ khắt khe và hơi quá đáng. Thánh Biển Đức sợ gì, xét về mặt tiêu cực? Còn về mặt tích cực, ngài muốn gì?

Bản văn cho thấy khá rõ điều thánh nhân sợ: Trước hết ngài sợ những liên hệ tình cảm (với gia đình hay với một đan sĩ khác) sẽ lấn át những mối liên hệ mới mà đan viện phải gây dựng nên. Thoạt nhìn chuyện ấy có thể chẳng quan trọng gì, nhưng một lúc nào đó ta đều đã hoặc sẽ cảm nghiệm rằng mình được người ngoài hiểu và quí mến hơn anh em trong cộng đoàn. Khi ấy ta rất dễ bị cám dỗ sống trong đan viện mà lòng trí lại để ngoài đời.

Điều thứ hai thánh Biển Đức sợ, đó là có những người nhận được nhiều quà tặng, trong khi những người thuộc gia đình nghèo khó, hay không gia đình bạn hữu, sẽ chẳng nhận được gì. Xét chung thì những người nhận được nhiều sẽ không hiểu họ có thể làm phương hại đến tình liên đới của cộng đoàn như thế nào, nếu họ không biết chia sẻ. Thánh Biển Đức không hề muốn thấy phát sinh những chênh lệch xã hội như vẫn có trong thế gian.

Nhưng nơi thánh nhân, tất cả những nỗi sợ ấy đều là do một trong những cảm thức cơ bản về đời đan tu, đó là mối thông hiệp trong nếp sống cộng đoàn, được xây dựng trên kinh nghiệm về ơn cứu rỗi trong Giáo Hội. Mối giây liên kết các đan sĩ không thuộc lãnh vực thân cận hay vụ lợi, nhưng do cảm nghiệm chung về mối liên hệ con cái. Vì là những người con, trong Chúa Con, mà ta trở nên anh em với nhau. Ta thường hay thích sống theo mức độ thiện cảm hay ác cảm, hoặc vụ lợi. Chia sẻ những gì ta có, những ân huệ vật chất, tinh thần, thiêng liêng v.v. là dấu cho hay ta thực sự là những người con của Thiên Chúa.

Chương  55

Y PHỤC VÀ GIẦY DÉP ANH EM

Ngày 7.4 – 7.8 – 7.12    

1 Việc cấp phát y phục cho anh em phải thích hợp với hoàn cảnh và khí hậu địa phương nơi họ ở; 2 vì xứ lạnh cần nhiều hơn, còn xứ nóng cần ít hơn. 3 Viện phụ phải lưu tâm đến vấn đề đó. 4 Còn những miền khí hậu ôn hoà, cha thiết tưởng đan sĩ có một áo thụng và một áo dài là đủ, 5 mùa đông áo dầy, mùa hạ áo mỏng hay cũ; 6 có áo vai để làm việc, cũng phát vớ và giầy dép nữa. 7 Đan sĩ đừng bận tâm đến màu sắc hay vẻ thô sơ của những thứ ấy. Địa phương có sao ta dùng vậy, và thường mua sắm thứ rẻ tiền hơn. 8 Viện phụ hãy để ý đến kích thước sao cho y phục ai dùng thì vừa tầm vóc người ấy, đừng ngắn quá. 9 Khi lãnh đồ mới, luôn luôn phải trả ngay đồ cũ để cất vào phòng áo cho người nghèo. 10 Để thay đổi ban đêm và giặt giũ, mỗi đan sĩ có hai áo thụng và hai áo dài là đủ . 11 Còn gì nữa là thừa, phải bỏ bớt. 12Giầy dép hay đồ gì cũ đều phải trả lại khi nhận đồ mới. 13 Anh em đi đường đến phòng áo lãnh đồ mặc lót, khi về họ phải giặt sạch rồi trả lại. 14 Tại phòng áo cũng có sẵn áo thụng, áo dài tốt hơn thứ thường để anh em đi đường đến lãnh dùng, khi về thì trả lại.

Chú giải:

A – Ngày 7.4

Thời nào cũng thế, trong đời sống xã hội y phục có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trước hết y phục hữu dụng để bảo vệ ta khỏi sức nóng mặt trời và thời tiết xấu. Đó là điều cốt yếu thánh Biển Đức nói đến ở đầu chương này. Ngài cũng đề cập tới môi trường xã hội, tới phẩm chất, số lượng, mầu sắc y phục và cách thức may. Sau cùng, y phục cần phải vừa vặn hợp với dáng vóc và diễn tả được mối tương quan của ta với thân xác mình. Trong chương 55 này ta thấy ba nhiệm vụ căn bản của y phục: tính hữu dụng, phương thế nhận diện trong xã hội, biểu hiện tượng trưng về tương quan với thân xác.

Dù trong văn hóa hay tôn giáo nào, các truyền thống đan tu đều thấy cần phải có y phục riêng cho đan sĩ để phân biệt họ với những người khác. Ngay từ cội nguồn đan tu trào kitô, các yếu tố y phục đan tu, như viện phụ Pinaphiô và sau đó Cassianô nói đến, đã có một giá trị tượng trưng rất lớn tới độ người ta có thể tự hỏi liệu câu ngạn ngữ bình dân quả quyết rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu” có sai lầm chăng.

Đúng là không chỉ mặc áo đan sĩ thôi mà có thể trở thành đan sĩ được, nhưng cũng đúng khi nói y phục đan tu dần dần biến đổi đan sĩ, giống như môi trường ta sống sẽ khuôn đúc ta theo nó. Đón nhận y phục không chỉ là một dấu hiệu về việc gia nhập vào một nhóm người nào đó mà còn hơn thế nữa. Đó là cách chấp nhận để mình được y phục tái thiết và nhắc nhở cho mình về ơn gọi Thiên Chúa ban. Trong một đời sống thiêng liêng lâu dài như cuộc đời chúng ta, chẳng có phương thế nào là nhỏ nhặt đối với ai ý thức được thân phận yếu đuối của mình.

B – Ngày 7.8      

Khó mà nhận ra được ranh giới giữa cái dư thừa và cái cần thiết. Thực vậy, ta khó có thể thấy mình bị ảnh hưởng tới mức nào bởi những kiểu hưởng thụ của xã hội chung quanh. Ta có thể để mình sa bẫy mà chẳng hay, cái bẫy “tất cả, ngay lập tức”, hay “hoàn toàn mới, hoàn toàn đẹp”. Nhu cầu thỏa mãn tức thì, nhu cầu chạy theo mẫu mã mới nhất là những động lực chính của xã hội hưởng thụ.

Điều tạo nên ma lực, tạo ra sự mù quáng của một hệ thống xã hội, đó là người ta không thấy được những động lực ẩn sâu trong vô thức. Sự mù quáng có khi còn là điều kiện thiết yếu để những cách sống như thế tồn tại được mãi. Và thật là ngây thơ nếu nghĩ rằng ta có thể dễ dàng thoát khỏi sự mù quáng đó.

Để giúp ta thoát khỏi, thánh Biển Đức đã tiên liệu hai con đường mà ngày nay vẫn còn giá trị. Con đường thứ nhất là thực tại khách quan: bằng lòng với những gì có bán ngoài chợ (c.7). Không chạy xuôi chạy ngược để tìm kiếm những thứ không có. Con đường thứ hai là cặp mắt của anh em và viện phụ. Quả thực, ta cần người khác để ý thức được mình bị giam hãm, bị nô lệ cho những cái nhỏ mọn như thế nào. Vả lại thật là ý nghĩa khi biết ta rất sợ được anh em giúp đỡ, sợ bị đặt trước sự thật về mình. Khi ấy ta sẽ tìm cách làm cho người khác sợ mình để họ khỏi làm phiền mình nữa. Và như vậy là từ chối đi vào con đường tự do được đề nghị với ta.

C – Ngày 7.12:

Thời nào cũng thế, trong đời sống xã hội y phục có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trước hết y phục hữu dụng để bảo vệ ta khỏi sức nóng mặt trời và thời tiết xấu. Đó là điều cốt yếu thánh Biển Đức nói đến ở đầu chương này. Ngài cũng đề cập tới môi trường xã hội, tới phẩm chất, số lượng, mầu sắc y phục và cách thức may. Sau cùng, y phục cần phải vừa vặn hợp với dáng vóc và diễn tả được mối tương quan của ta với thân xác mình. Trong chương 55 này ta thấy ba nhiệm vụ căn bản của y phục: tính hữu dụng, phương thế nhận diện trong xã hội, biểu hiện tượng trưng về tương quan với thân xác.

Dù trong văn hóa hay tôn giáo nào, các truyền thống đan tu đều thấy cần phải có y phục riêng cho đan sĩ để phân biệt họ với những người khác. Ngay từ cội nguồn đan tu trào kitô, các yếu tố y phục đan tu, như viện phụ Pinaphiô và sau đó Cassianô nói đến, đã có một giá trị tượng trưng rất lớn tới độ người ta có thể tự hỏi liệu câu ngạn ngữ bình dân quả quyết rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu” có sai lầm chăng.

Đúng là không chỉ mặc áo đan sĩ thôi mà có thể trở thành đan sĩ được, nhưng cũng đúng khi nói y phục đan tu dần dần biến đổi đan sĩ, giống như môi trường ta sống sẽ khuôn đúc ta theo nó. Đón nhận y phục không chỉ là một dấu hiệu về việc gia nhập vào một nhóm người nào đó mà còn hơn thế nữa. Đó là cách chấp nhận để mình được y phục tái thiết và nhắc nhở cho mình về ơn gọi Thiên Chúa ban. Trong một đời sống thiêng liêng lâu dài như cuộc đời chúng ta, chẳng có phương thế nào là nhỏ nhặt đối với ai ý thức được thân phận yếu đuối của mình.

Ngày 8.4 – 8.8 – 8.12    

15 Đồ trang bị giường ngủ gồm đủ chiếu, chăn, mền, gối. 16 Viện phụ phải năng kiểm soát giường chiếu anh em, để không ai có của gì riêng. 17 Nếu gặp ai có của gì không do viện phụ cấp phát, người ấy sẽ bị trọng phạt. 18 Để nhổ tận gốc thói xấu giữ của riêng, viện phụ phải cấp phát những thứ cần dùng: 19 áo thụng, áo dài, giầy dép, giây lưng, dao, bút, kim, khăn tay, bảng viết… để không ai viện cớ mình còn thiếu. 20 Viện phụ hãy luôn luôn suy niệm châm ngôn này trong Công Vụ Tông Đồ: “Người ta phân phát cho mỗi người tùy nhu cầu của họ“. 21 Vậy viện phụ hãy xét đến sự yếu đuối của những người có nhu cầu, chứ đừng theo ý xấu của kẻ ganh tị. 22 Nhưng trong mọi quyết định, ngài hãy nhớ Chúa sẽ xét xử theo việc ngài làm.

Chú giải:

A – Ngày 8.4

Đối với thánh Biển Đức, khuôn mẫu của đời sống chung chính là cộng đoàn tiên khởi Giêrusalem, như mô tả trong sách Công Vụ Tông Đồ. Và điều thánh nhân ghi nhận từ cộng đoàn này đó là họ để tất cả làm của chung và mỗi người được cung cấp theo nhu cầu. Đấy là những đặc tính cốt yếu của đức khó nghèo đan tu: để làm của chung và nhận theo nhu cầu.

Hiến dâng tất cả để nhận được tất cả, đó là định nghĩa của đức khó nghèo đan tu. Nhưng để dâng tất cả và nhận tất cả, thì một điều kiện cần thiết là phải có lòng tin tưởng. Không tin tưởng thì sau cùng ta sẽ giữ lại chút gì đó, phòng khi bất trắc, như lỡ ra mình bị quên bỏ hay ngại ngùng không dám xin.

Khi nói tới tin tưởng hay thiếu tin tưởng ta có thể cho rằng người khác không đáng tin, rằng lòng tin của ta bị lừa. Vì vậy ta có lý để mà không tin ai nữa, để giữ lại chút gì đó. Tuy nhiên, ai có thể quả quyết rằng sự tin tưởng của mình không bao giờ bị phản bội, hay không bao giờ mình phụ lòng tin tưởng của người khác? Thật là sai lầm khi nghĩ mình có thể cậy dựa vào một người phàm hay vào chính bản thân. Lòng tin tưởng đích thực phải đi xa hơn thế nhiều.

Nơi người Tôi Tớ Chúa trong Isaia (50, 4-7) ta gặp được bí quyết của lòng tin tưởng. Không phải vì thoát được thực tại đau thương khắc nghiệt mà người Tôi Tớ ấy có thể thốt lên: “Có Chúa trợ giúp tôi”. Trái lại, lúc đó chính là lúc ngài đang bị vùi dập giữa muôn vàn sỉ nhục và đau khổ. Ngài vững lòng tin tưởng chỉ nhờ cậy dựa vào Lời Chúa mà thôi. Ngài càng suy niệm Lời Chúa, Lời Chúa càng ở lại trong ngài và biến đổi ngài. Từ nay cuộc đời không còn là một chuỗi những biến cố vui buồn nữa, nhưng đã tràn đầy một sự hiện diện nhiệm mầu mà chỉ Lời Chúa mới giúp ngài nhận ra được.

Sự tin tưởng, giúp đan sĩ mở rộng tay để có khả năng cho đi tất cả và đón nhận tất cả, bắt nguồn từ việc gắn bó thân tình với Lời Chúa. Một ngày nào đó, tất cả chúng ta đều có thể cảm thấy không làm sao mà tin tưởng được, mặc dầu ta rất muốn. Khi ấy, phương dược duy nhất hữu hiệu là suy hiểu thấu đáo và sống trọn vẹn lời sách Công Vụ nói: “Người ta phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu”.

B – Ngày  8.8       

Với đoạn tu luật xem ra không có gì quan trọng này, thánh Biển Đức vạch ra một trong những thành kiến dai dẳng nhất của ta. Quả thực, nếu tu luật quan tâm tới mọi chuyện, ngay cả tới giấc ngủ của đan sĩ, thì điều ấy có nghĩa là không có gì trong cuộc sống phàm trần của ta mà Chúa nhân từ không nhìn đến. Dù ta muốn hay không, tất cả mọi sự đều quan trọng, đều có chỗ đứng của nó trước con mắt Chúa.

Tuy nhiên, con người thời nay than phiền Giáo Hội can thiệp vào những lãnh vực riêng tư. Theo ta nghĩ, đó là những lãnh vực vượt ngoài thẩm quyền Giáo Hội. Cũng thế ta nhân danh tính độc lập cá nhân để sẵn sàng bênh vực những thói quen, những cách ăn ở của mình.

Về vấn đề này, thật là thú vị khi thấy rằng từ vài kỳ tổng công nghị vừa qua, một số viện phụ, nhất là ở Hoa Kỳ, đã đề nghị đưa trở lại Hiến Pháp những điều không còn được giữ nữa. Một số vị yêu cầu lập lại việc kiểm tra phòng các đan sĩ như là quyền và bổn phận của viện phụ. Cốt yếu là ta hiểu rằng trọn cả cuộc đời ta đều phải được Phúc Âm hóa.

C – Ngày 8.12

Ta thấy thánh Biển Đức thật là nghiêm khắc với “thói xấu giữ của riêng”, coi là của mình và cất giữ những gì không phải do viện phụ cấp phát. Ngài nói đi nói lại, như thể tất cả đời đan tu của ta tùy thuộc vào đó, như thể đây là một trong những vấn đề cơ bản nhất của ơn gọi đan tu. Tại sao thánh Biển Đức quan tâm đến chuyện đó nhiều như vậy?

Phân tích sơ qua chương này ta sẽ có thể hiểu được lý do. Để sửa chữa thói xấu giữ của riêng, thánh Biển Đức yêu cầu viện phụ năng kiểm soát phòng ngủ của đan sĩ để xem họ có cất giấu của gì không (c.16). Gắn liền với thói xấu trên là tính gian lận, dối trá. Sau khi ăn trái cấm, Ađam đã đi ẩn mình. Có sự liên kết sâu xa giữa cám dỗ gian lận và mối tương quan với Thiên Chúa.

Hẳn là vì khi thu tích của cải ta tìm cách lấp đầy chỗ trống, lấp đầy lỗ hổng nơi thâm cung lòng ta, một lỗ hổng chỉ Thiên Chúa mới lấp đầy được. Như vậy, điều đáng quan tâm không phải là những đồ vật, tự chúng chẳng tốt cũng chẳng xấu, nhưng là lỗ hổng đó, lỗ hổng ham muốn, nơi mà ơn gọi của ta kêu mời ta ở lại. Thiết tưởng ý nghĩa của sa mạc chính là không ngừng đưa ta trở về lỗ hổng sâu xa nhất của bản thân ta, vì Thiên Chúa đang chờ đợi ta ở đó.

Chương 56

BÀN ĂN CỦA VIỆN PHỤ

Ngày 9.4 – 9.8 – 9.12     

1 Viện phụ bao giờ cũng dùng bữa với trú khách và khách hành hương. 2 Những khi ít khách, ngài có thể gọi một vài anh em tùy ngài muốn. 3 Tuy nhiên, luôn luôn phải để một hay hai anh em cao niên ở lại với cộng đoàn để giữ kỷ luật.

Chú giải:

A – Ngày 9.4

Như thánh Biển Đức ấn định, viện phụ không dùng bữa với cộng đoàn, nhưng với khách hay những người hành hương tới đan viện. Khi không có khách, viện phụ mời vài anh em dùng bữa với ngài. Ở chương 53, câu 16 thánh Biển Đức đã nói: “Nhà bếp cho viện phụ và khách phải riêng biệt, để khi bất chợt khách đến sẽ không gây phiền hà cho anh em, vì không bao giờ đan viện thiếu khách”.

Khi đối chiếu câu văn trên đây với chương 56 này, ta dễ nhận ra ý nghĩa của điều thánh Biển Đức đã ấn định. Ngài không muốn nhắm tới một ưu đãi nào dành cho viện phụ. Nhưng ngài muốn đặt viện phụ như gạch nối giữa khách, là những người ở bên ngoài, và anh em, là những người ở bên trong cộng đoàn.

Đối với bên ngoài, viện phụ phải quan tâm để khách được đón tiếp tử tế và không phải thiếu thốn gì. Đối với bên trong, ngài cố gắng liệu sao cho việc đón tiếp khách không gây phiền hà cho cộng đoàn. Ngài bảo vệ cộng đoàn khi nhận lấy cho mình sự phiền hà do việc khách đến khách đi liên tục.

Ngày nay, làm trung gian điều hợp giữa việc cần phải đón tiếp khách và việc duy trì sự bình an cho cộng đoàn vẫn còn là vai trò của viện phụ, qua sự cộng tác của những anh em được chỉ định. Vai trò này được thực hiện vì mục tiêu cơ bản là giúp ta thăng tiến nội tâm, thăng tiến trong cuộc đời chiêm niệm.

Nếu việc đón tiếp khách được thực hiện tốt, thì sự hiện diện của khách có thể là một khích lệ cho đan sĩ. Nhưng phải làm sao để đan viện không quá bận rộn với việc tiếp đón khách khiến đan sĩ không còn làm gì khác được. Vì lợi ích của cộng đoàn cũng như của khách, viện phụ phải bảo đảm và duy trì mức quân bình trong vấn đề này.

B – Ngày 9.8

Mặc dầu ta thấy chương này có vẻ hơi kỳ lạ, nhưng theo Denis Huerre, nó hàm ý về ba điểm trong dung mạo của viện phụ như thánh Biển Đức muốn. Trước hết là đời sống nội tâm của viện phụ, tiếp đến mối liên hệ của ngài với anh em, sau cùng là vai trò của ngài đối với những người ngoài đan viện.

Vai trò đại diện cộng đoàn có liên hệ tới cuộc sống của Dòng, của Giáo Hội và của xã hội dân sự, nhưng cũng liên hệ tới mối tương quan giữa cộng đoàn với những người khách tìm đến đan viện. Ngày nay, vai trò này thường được ủy nhiệm cho các anh em phục vụ nhà khách hay giữ cổng. Họ được trao phó việc cụ thể hóa mối quan tâm đặc biệt dành cho Chúa Kitô nơi những người khách đến với chúng ta.

Mỗi viện phụ có đặc sủng riêng trong lãnh vực này. Nơi một số đan viện, chính viện phụ ra đón khách, chào hỏi và gặp gỡ họ. Nhưng thường thì việc tiếp đón được giao cho những anh em có khả năng. Đây không phải là việc luôn luôn dễ dàng đối với mọi người. Nhưng lại rất quan trọng. Thánh Biển Đức đã nói rất cặn kẽ về nhiệm vụ này.

C – Ngày 9.12:

Chương này là một trong số ít những chương không còn được thực hiện nữa, ít là ở cộng đoàn chúng ta. Viện phụ phải luôn luôn ăn cơm với khách, và tôi tự hỏi nếu ngày nay còn giữ như vậy thì đó lại chẳng là hy sinh lớn nhất tôi phải chịu sao? Các anh em biển đức giải quyết vấn đề bằng cách mời khách dùng bữa ở nhà cơm chung với cộng đoàn. Vì đã có kinh nghiệm về điều đó, nên tôi nhận thấy không dễ chịu lắm cho khách, bởi họ thường được xếp ngồi ở giữa nhà cơm, trước con mắt của cả cộng đoàn. Thú thật, tôi thích theo kiểu của chúng ta hơn.

Tuy nhiên, ta cũng nên thự hỏi tại sao thánh Biển Đức lại xếp đặt như thế. Ngài xếp đặt thế vừa vì vị thế của khách vừa vì nhiệm vụ ngài ủy thác cho viện phụ. Thực vậy, nhièu lần thánh Biển Đức nhấn mạnh đến việc tiếp đón khách như tiếp đón Chúa Kitô. Điều đó cho thấy thánh Biển Đức nghĩ rằng không có phân biệt giữa một thế giới bị cho là xấu xa với một đan viện được coi như thiên đàng rồi. Nếu đan sĩ sống xa cách mọi người, chính là do ý thức về thân phận mình yếu đuối và về sứ mệnh đối với mọi người.

Về phần viện phụ, thánh Biển Đức coi ngài như người đầu tiên có bổn phận tiếp đón khách, cũng như người đầu tiên chăm sóc bênh nhân, lo việc nhà bếp, việc nhà may. Mọi nhiệm vụ trong đan viện đều được ủy thác, có nghĩa là được lãnh nhận, và do đó người được ủy thác nhiệm vụ phải báo cáo lại. Một lần nữa cũng lại Chúa Kitô giữ vị trí trung tâm. Một cách nào đó, chính do sự ủy quyền của Chúa Kitô mà ta tiếp đón Chúa Kitô nơi người khách. Chỉ có Chúa Kitô trong tôi mới có thể đón tiếp Chúa Kitô trong người khác.

Chương 57

NHỮNG ANH EM THẠO NGHỀ

TRONG ĐAN VIỆN

Ngày 10.4 – 10.8 – 10.12   

     1 Nếu trong đan viện có anh em thạo nghề, họ hãy hành nghề với tất cả lòng khiêm tốn, miễn là viện phụ cho phép. 2 Nếu ai trong họ kiêu căng cậy mình biết nghề, tưởng mình làm lợi cho đan viện, 3 người ấy sẽ bị ngưng việc, không được làm nữa, trừ khi đã khiêm tốn và viện phụ bảo làm lại. 4 Nếu phải bán sản phẩm của các anh em hành nghề, những ai lo việc này hãy ý tứ đừng gian tham. 5 Luôn nhớ tới Anania và Saphira, sợ rằng cái chết mà vợ chồng này đã chuốc vào thân xác, 6 thì những anh em ấy và những ai gian lận tài sản của đan viện phải mang lấy nơi linh hồn. 7  Còn về giá cả, đừng để tật xấu hà tiện chi phối, 8  nhưng luôn luôn bán hạ giá hơn người đời một chút, 9  để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh.

Chú giải:

A – Ngày 10.4

“Nếu có ai sinh kiêu căng vì tưởng đã làm lợi cho đan viện”. Câu này gồm hai phần: phần một nói về tình trạng thiêng liêng của người anh em: tính kiêu căng; phần hai về cái cớ khiến anh ta kiêu căng: đã làm lợi cho đan viện do khả năng của mình. Vậy phải chăng để tránh kiêu căng thì tốt hơn không nên có khả năng gì?

Thánh Biển Đức không nói đến lý do, nhưng nói đến cái cớ. Theo Cassianô, kiêu căng không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong. Đó là căn bệnh sâu xa nhất của tâm hồn: nại cớ bên ngoài để kiêu căng tự phụ. Cái cớ bên ngoài không gây nên tính kiêu căng, nhưng biện minh cho tính xấu ấy.

Như thế, kiêu căng là căn bệnh trầm trọng nhất của linh hồn, vì đó là căn bệnh của con rắn, của con quỉ kiêu ngạo. Tính kiêu căng lợi dụng tất cả để phình to lên và sau cùng sẽ nhận chìm hết những gì là tốt đẹp và lành mạnh trong ta, sẽ làm ô nhiễm cả tới điều tốt nhất nơi tâm hồn ta. Thánh Biển Đức quá biết điều đó và ngài đề nghị một cách chữa trị tận căn ở chương 57 này. Ngài bảo phải cất đi cái cớ làm cho tính kiêu căng bùng lên, nếu không thể diệt trừ ngay được thói xấu đó.

Nơi những người khác, ta dễ dàng nhận ra rằng tính kiêu căng khiến người ta dần dần sẽ nghĩ là mình cần thiết đến độ không thể không có mình, hoặc tưởng mình chẳng được ai hiểu, tự coi mình như một thiên tài không được biết đến. Con người ta thật mù quáng về mình!

Trong chương 57 này, thánh Biển Đức đưa ra một cách thức đơn giản để nhận ra mình có rơi vào thói kiêu ngạo hay không, đó là coi xem mình có nghĩ đã làm lợi gì cho đan viện không, hay nói cách khác, coi xem mình có nghĩ đan viện cung cấp cho mình ít hơn là mình đóng góp cho đan viện không. Nếu tưởng nghĩ như thế thì thật là quá sức ảo tưởng, nhưng lại thường xẩy ra!

B – Ngày 10.8

Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ cho là của mình những kết quả do công việc mình làm, thuộc lãnh vực vật chất, tri thức hay thiêng liêng. Nhu cầu thành công, có được kết quả, hài lòng về mình đâu phải là điều xấu. Ai trong ta lại không cảm thấy một chút hãnh diện sau khi đã hoàn thành mỹ mãn một công việc.

Nhu cầu sở hữu có thể gắn kết cả với sự kiện chẳng có gì. Thật là cực kỳ mâu thuẫn! Với thánh Biển Đức, đó là một trong những khuynh hướng cơ bản của con người, cái nhu cầu có để hiện hữu. Nhưng toàn bộ tu luật đòi hỏi ta đảo ngược lại điều đó: Hiện hữu để có.

Đó là thách đố cơ bản của cuộc sống đan tu, đi từ có để hiện hữu đến hiện hữu để có. Và bước đi này luôn luôn phải vượt qua cái vô hữu. Đó là bước đi nguy hiểm nhất, cam go nhất, nếu không nói là không thể thực hiện được. Vì đó là phải chết thực sự, phải bỏ mất chính mình, như Phúc Âm đòi hỏi.

Nhưng đó lại là điều kiện để được sống thật. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, sẽ không trổ sinh được”. Lời Chúa Giêsu nghe cứng cỏi, nhưng lại rất đúng. Và cả cuộc đời ta là một chuỗi nối tiếp những bước đi nhỏ, những lễ vượt qua nhỏ, chuẩn bị ta mừng lễ Vượt Qua đích thực. Và khi ấy, ngài thế nào ta sẽ thấy ngài như vậy, vì ta sẽ được nên giống như ngài.

C – Ngày 10.12

Mối nguy rình rập người có năng khiếu, người thạo nghề, chính là kiêu ngạo. Thánh Biển Đức còn nêu rõ thứ kiêu ngạo nào: đó là tưởng mình làm lợi cho đan viện. Đây là một mối nguy thực sự. Vì tự căn bản, thái độ của đan sĩ là đón nhận. Đan sĩ là người tới đan viện để tìm ơn cứu rỗi, là người sống trong tư thế một kẻ nghèo, một kẻ đi xin. Khi nghĩ mình có cái gì, khi tưởng mình làm lợi được cái gì ta liền bỏ mất phẩm tính người đan sĩ, đi lạc khỏi con đường đích thực của ơn gọi đan tu.

Qua thái độ này, khuôn mặt con người nội tâm của ta sẽ bộc lộ nơi công việc ta làm. Thánh Biển Đức đưa ra hai dấu hiệu như là hai tiêu chuẩn giúp ta nhận biết mình có rơi vào thói kiêu ngạo không. Dấu hiệu thứ nhất là cho rằng không thể không có mình. Thực vậy, một số người chỉ cần thay đổi chức vụ là tức khắc bị khủng hoảng ngay. Điều này cho thấy cuộc đời họ không được xây dựng trên nền tảng là Chúa Kitô, nhưng trên những gì họ làm. Dấu hiệu thứ hai là tính hà tiện. Hà tiện có thể biểu lộ bằng hai cách: theo nghĩa đen và theo nghĩa bóng. Theo nghĩa đen đó là kiếm tiền nhiều bao nhiêu có thể. Hà tiện cũng biểu lộ theo nghĩa bóng và thường dùng đến cách đe dọa: có vậy thôi, tôi chẳng làm gì nữa. Cách đe dọa này có thể minh nhiên qua lời nói, hay mặc nhiên qua sự chống đối thụ động.

Những hình thức thoái hóa trên đây chỉ có một phương chữa trị mà ta thấy trong chương 57 này qua lời thánh Biển Đức nhắc nhở tại sao ta vào đan viện, đó là “để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh”. Và có lẽ thỉnh thoảng ta phải có can đảm tự hỏi mình: ta có sống để Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự không, hay chỉ sống cho mình, để mình được mãn nguyện?

Chương  58

CÁCH THỨC NHẬN ANH EM

Ngày 11.4 – 11.8 – 11.12     

1 Ai mới đến xin tu, không nên dễ dàng nhận ngay. 2 Nhưng theo lời thánh Tông Đồ: “Hãy nghiệm xét các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa không”. 3 Vậy nếu người đến xin tu kiên nhẫn gõ cửa, chịu đựng những sỉ nhục và khó khăn để xin vào, sau bốn năm hôm, vẫn kiên tâm nài xin, 4 bấy giờ mới nhận và cho ở nhà khách ít ngày.

5 Sau đó dẫn vào nhà tập, nơi họ sẽ suy niệm và nghỉ ngơi, ăn uống. 6 Hãy đặt một vị lão thành có khả năng thu phục lòng người để chăm chú quan sát, 7 xem họ có thực tâm tìm Chúa, có mộ mến thần vụ, yêu thích vâng lời và ham chuộng sỉ nhục không. 8 Nói trước cho họ biết tất cả mọi cực khổ cam go, nhờ đó họ mới đến được với Chúa. 9 Nếu họ hứa kiên trì bền đỗ, sau hai tháng, tuần tự đọc trọn luật này cho họ nghe, 10 hãy nói với họ: đây là luật mà con muốn theo để chiến đấu, nếu có thể giữ được con hãy vào, nếu không con cứ tự do rút lui. 11 Nếu họ còn kiên vững, lúc ấy hãy dẫn họ về nhà tập và bằng mọi cách lại thử lòng kiên nhẫn của họ. 12 Sau một kỳ sáu tháng, lại đọc luật cho họ nghe, để họ biết mình vào Dòng làm gì. 13 Nếu còn kiên vững, sẽ đọc luật này cho họ nghe thêm một kỳ bốn tháng nữa.

14 Sau khi đã suy nghĩ chín chắn, nếu họ hứa giữ mọi điều và tuân theo tất cả các lệnh truyền, bấy giờ họ mới được gia nhập cộng đoàn, 15 họ phải biết rằng, do luật buộc, từ nay họ không được ra khỏi đan viện nữa, 16 cũng không được trút bỏ ách lề luật mà họ đã có thể từ chối hay chấp nhận sau một thời gian suy xét lâu dài như vậy.

Chú giải:

A – Ngày 11.4

Với thánh Biển Đức, tiến trình gia nhập cộng đoàn chỉ có một mục đích duy nhất là giúp cho ứng sinh tìm đến đan viện ý thức rằng “đường đi về với Chúa” là đường “cực khổ cam go”. Nhưng điều đó không chỉ đúng cho người mới đến xin nhập tu. Trải qua năm tháng, chính ta cũng thường dễ quên mất con đường cực khổ cam go ấy rồi đâm nản khi giáp mặt với những khó khăn xẩy đến mỗi ngày.

Thánh Biển Đức không tin tưởng lắm nơi những tập sinh chẳng hề gặp trắc trở, mà chỉ thấy mọi sự trong đời đan tu đều trơn tru dễ dàng, nhẹ nhàng thoải mái. Ngài muốn cho tập sinh ngay từ đầu đã kinh nghiệm được thế nào là khô khan, nặng nhọc và thất bại ê chề. Vì chỉ khi đó, Chúa mới có thể nắm quyền điều khiển cuộc đời họ.

Mối nguy đích thực không phải là người anh em bị trật đường rầy, không còn kiểm soát được cuộc sống mình nữa. Nhưng trái lại, nguy cơ lớn nhất là anh ta muốn nắm quyền điều khiển mọi sự, nên không còn khả năng để cho ơn thánh làm việc nơi mình nữa. Điều đáng sợ nhất không phải là tội lỗi, nhưng là từ chối thú nhận tội lỗi, là không còn khả năng nhìn ra thực trạng của mình.

Những gắng công vất vả ta phải trải qua trong thời gian tập viện chính là để dẹp bỏ những dáng vẻ bên ngoài mà ta tưởng có thể dùng để che mắt người khác, che mắt cả Thiên Chúa nữa. Bởi vậy, thời gian tập không phải là thời gian dễ dàng. Do đó, ta có bổn phận cầu nguyện cho những người mới vào, và với lòng nhân từ bác ái ta giúp họ vượt thử thách ban đầu của đời đan tu. Ta cũng phải cám ơn họ đã nhắc nhở ta rằng ta cũng là những con người mỏng dòn yếu đuối.

B – Ngày 11.8

Khi đọc chương này, người ta không thể không nghĩ rằng thánh Biển Đức đã viết với tất cả kinh nghiệm của ngài. Từ đó ta hiểu được ngài cực kỳ khôn ngoan trong việc nhận thành viên mới vào cộng đoàn. Tựu trung, ngài sử dụng ba nguyên tắc cơ bản của phân định: thời gian, thử thách, nhắc đi nhắc lại những yêu sách của đời đan tu.

Trước hết là thời gian. Thánh Biển Đức đòi phải có thời gian. Thiên Chúa không vội vàng. Nếu thực sự được Chúa dẫn dắt, thỉnh sinh sẽ không nản lòng vì phải chờ đợi. Trái lại, nhờ thế anh sẽ dần dần từ bỏ ý riêng để đi theo Chúa.

Tiếp đến là thử thách. Thánh Biển Đức muốn xác minh rằng thỉnh sinh thực sự được Chúa mời gọi chứ không bị ước muốn riêng thúc đẩy. Thử thách giữ vai trò cơ bản trong đời sống đan tu. Khi dần dần loại bỏ khỏi lòng ta những lý do sai lầm khiến ta muốn làm đan sĩ, thử thách giúp ta nhận ra rằng không phải ta chọn đời tu, nhưng ta đã được chọn dù chẳng hay biết.

Yếu tố sau cùng của phân định đó là nhắc đi nhắc lại những yêu sách của đời đan tu. Dù đã khấn trọng thể, ta vẫn cần được nhắc đi nhắc lại ta đã cam kết sống đời đan tu để làm gì và tại sao. Điều tệ hại hơn cả là quên mất ý nghĩa và định hướng của đời mình. Vì khi đó ta sẽ là những đan sĩ vô dụng, lãng phí cuộc đời khi chạy theo các ảo tưởng.  

C – Ngày 11.12

Nếu có điều gì thánh Biển Đức không thể chấp nhận, thì đó là sự dễ dãi. Cách ngài tiếp nhận thỉnh sinh chẳng hề giống với khuynh hướng “khuyến mãi” đôi khi phổ biến trong Giáo Hội ngày nay. Ta còn có thể nói ngài tìm cách làm cho ứng sinh nản lòng, khiến họ phải bỏ cuộc. Tại sao ngài làm thế, trong khi ở nơi khác ngài lại mong cho viện phụ được vui mừng vì đoàn chiên tăng số?

Thật ra, thánh Biển Đức muốn giúp ta nhạy bén trước một thực tại hết sức cốt yếu, đó là cộng đoàn được xây dựng trên nền tảng là Chúa Kitô, chứ không trên ảo tưởng. Mà không gì giúp ta loại trừ ảo tưởng cho bằng biết rõ sự thật về mình.

Không phải cứ làm cho đời đan tu trở nên dễ dãi mà ta có thể giúp được ai có nhận định chính xác. Ngược lại, khi tránh cho họ những khó khăn, là ta ngăn cản họ giáp mặt với câu hỏi đích thực, câu hỏi duy nhất đáng được đặt ra: “tại sao tôi đến đây?”

Trước kia cha tập sư của tôi đã bảo tôi người ta không bao giở ở lại vì những lý do đã đưa người ta đến. Vì cùng với những ảo tưởng, hình ảnh sai lạc về mình sẽ tiêu tan. Điều này đôi khi thật cam go, thật đau đớn, nhưng lại là phương thế duy nhất để ta có thể nghe được tiếng nói âm thầm từ nội tâm đã hướng dẫn ta mà ta chẳng hay biết.

Nói chung thì các vị cao niên không giải thích được tại sao đã vào đan viện và càng không giải thích được các ngài đã làm cách nào để ở lại. Các ngài biết rằng đó là do phép lạ, và phép lạ thì không giải thích được.

Ngày 12.4 – 12.8 – 12.12   

17 Người được nhập cộng đoàn sẽ hứa: bền đỗ, canh tân và vâng phục, trước nhan Thiên Chúa và các thánh của ngài, trong nhà nguyện, trước mặt mọi người, 18 để sau này nếu có lúc nào họ hành động thể khác, thì họ hãy biết rằng Ðấng mà họ nhạo báng sẽ luận phạt họ. 19 Về lời khấn này, họ phải viết tờ khấn nhân danh các thánh có hài cốt tại đó và có viện phụ hiện diện. 20 Chính đương sự phải tự tay viết lời khấn; nếu không biết chữ thì nhờ người khác viết thay rồi khấn sinh ký tên và đích thân đem đặt trên bàn thờ. 21 Sau đó, khấn sinh xướng ngay câu này: “Lạy Chúa, xin đón nhận con theo lời Chúa để con được sống và con sẽ không thất vọng vì đã trông đợi Chúa”. 22 Toàn thể cộng đoàn lặp lại ba lần và hát tiếp “Vinh Danh”. 23 Tiếp theo, khấn sinh đến phủ phục dưới chân từng người để xin cầu nguyện cho mình. Và từ giờ ấy họ được kể là thành phần của cộng đoàn.

24 Nếu có của cải gì, thì trước đó hoặc phân phát cho người nghèo, hoặc long trọng dâng cho đan viện, không giữ lại chút gì cho mình, 25 vì khấn sinh nên biết rằng từ ngày ấy mình không có chủ quyền ngay cả trên bản thân mình nữa.

26 Ngay sau đó, tại nhà nguyện hãy cởi thường phục họ đang mặc và mặc cho họ y phục đan viện. 27 Y phục họ cởi ra hãy giữ lại trong nhà may 28 để nếu khi nào họ theo ma quỷ dụ dỗ mà bỏ đan viện – mong đừng xảy ra như thế – bấy giờ hãy cởi y phục đan viện và cho họ đi. 29 Còn tờ khấn mà viện phụ đã nhận từ bàn thờ, họ không được xin lại nhưng phải lưu giữ trong đan viện.

Chú giải:

A – Ngày 12.4

Câu 17 đề cập tới ba lời khấn ta tuyên hứa ngày khấn dòng. Ba lời khấn này nói lên tất cả yếu tính của đời sống đan tu: bền đỗ, hoán cải và vâng phục. Khi chấp nhận lắng nghe, mở tai ra (vâng phục) ta có thể phân định được con đường hoán cải Chúa vạch cho ta, mà không tháo lui khi gặp trắc trở (bền đỗ).

Tuy nhiên, ta hãy nói tới một khía cạnh khác của câu 17 này. Đó là động từ thánh Biển Đức dùng để diễn tả điều mà người được nhận vào cộng đoàn thực hiện: “promittat”, “họ sẽ hứa”. Người cam kết sống đời đan tu nói lên một lời hứa, và đồng thời ta thấy tất cả sự long trọng của lời hứa này, do địa điểm, các chứng nhân, các nghi thức và những lời kinh đi kèm, sau cùng là do những hậu quả của lời hứa ấy.

Trong Thánh Kinh, chính Thiên Chúa hứa. Chính ngài đã hứa với tổ phụ Abraham và miêu duệ ông. Thiên Chúa của Thánh Kinh là Thiên Chúa của lời hứa. Tất cả Thánh Kinh là lời hứa này được bày tò bằng chữ viết. Bản lời khấn mà đan sĩ ký tên trong ngày khấn cũng là một bản văn được viết trên giấy, như thánh Biển Đức nói rõ ở câu 19 và 20.

Như vậy, bằng việc khấn dòng, đan sĩ trở nên con người của lời hứa, trước nhan Thiên Chúa của lời hứa. Không phải con người của dự phóng, nhưng con người của lời hứa, con người tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, như Thiên Chúa hiện diện trước mặt mình. Người ấy chẳng biết gì đến tương lai. Cuộc đời đan tu không phải là một dự phóng, nhưng là cuộc gặp gỡ giữa hai lời hứa, giữa hai sự trung thành.

B – Ngày 12.8

Nghi thức khấn mô tả ở phần hai của chương 58 này xác định vị trí và vai trò của mỗi người. Nơi diễn ra nghi thức là nhà nguyện. Người tham dự là “tất cả” anh em (c.17), “Thiên Chúa và các thánh” (c.18). Hành vi thực hiện là một “lời hứa” (c.19) “nhân danh các thánh có hài cốt tại đó và nhân danh viên phụ hiện diện” (c.19). Sau cùng, tờ khấn do ứng sinh viết (c.20) và mang đặt trên bàn thờ sau khi đã ký tên (c.20).

Tất cả những yếu tố này: nơi khấn, những người được mời, sự long trọng, làm cho việc khấn hứa đan tu có tính cách hoàn toàn đặc biệt. Như ta thấy, tất cả những yếu tố này đều có trong cử hành Thánh Thể. Nhưng của lễ hiến dâng là trọn bản thân khấn sinh chứ không phải là Chúa Kitô. Vì thế, ở câu 25, thánh Biển Đức xác định: “Kể từ ngày ấy, họ biết rằng họ không còn quyền ngay cả trên bản thân mình nữa”.

Chiều kích Thánh Thể của đời sống chúng ta, được biểu lộ nơi nghi thức khấn dòng, giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa thâm sâu của đời đan tu. Như Thiên Chúa muốn làm nên Thân Xác của Con ngài từ tấm bánh nhỏ, thì, nếu có thể nói, ngài cũng muốn làm cho ta nên những “Kitô khác” khi dần dần biến đổi ta nên giống hình ảnh của Con ngài.

Việc khấn hứa đan tu mời gọi ta thay đổi tận gốc cách nhìn cuộc sống của mình. Vấn đề chính là “Chúa Kitô phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”. Vấn đề là ngài đến ở với ta trong từng giây phút, từng công việc, từng bữa ăn. Vấn đề là ta biểu lộ được phần nào sự hiện diện và lòng nhân ái của ngài. Nhưng có được vậy không? Trong cử hành Thánh Thể mỗi ngày, khi linh mục dâng bánh và rượu, ta hãy nhớ rằng bánh và rượu đó cũng chính là bản thân ta nữa. Và khi hiệp lễ ta hãy tự nhủ như thánh Augustinô: “Hãy trở nên điều tôi lãnh nhận”.

C – Ngày 12.12

Thánh Biển Đức đã tiên liệu một con đường dài cho việc hội nhập vào cộng đoàn, từ thời gian thỉnh tu tới lúc khấn trọng thể. Nhưng, đối với ngài, con đường hội nhập này cũng là con đường từ bỏ và siêu thoát. Ta có thể ngạc nhiên khi thánh nhân đòi hỏi việc hội nhập phải qua nhiều giai đoạn. Tuy thế, ta cũng hiểu rằng không thể làm tất cả trong một ngày.

Thực vậy, chỉ sau những tháng ngày dài trong cuộc sống đan tu ta mới nhận ra những dính bén, những ràng buộc. Đôi khi phải mất nhiều thời gian để đi từ lý tưởng mình mơ ước tới thực tại cam go của thân phận con người. Với thánh Biển Đức, thời gian tập sự lâu dài này chính là giai đoạn nhân bản hóa. Ta tái khám phá sự thật về bản thân mình.

Chính qua thời gian chuẩn bị này, ta sẽ lại nhận ra được điều cấu tạo nên ta, điều mà ta thường quên lãng. Ta cứ tưởng đã dễ dàng quên bỏ những người ta quí mến, căn nhà ta đã ở, những điều ta bận tâm, những cách ta suy nghĩ, thế mà bỗng nhiên tất cả lại xuất hiện nơi lòng trí ta. Thời gian chuẩn bị này là lúc tái khám phá con người thật của mình.

Điều ấy có thể làm nảy sinh hoài nghi, lo lắng, chán nản và đôi lúc muốn thoái lui. Đó là chuyện bình thường, và sẽ còn xẩy ra suốt cuộc đời đan tu của ta. Nhưng đó lại là phương tiện duy nhất giúp ta nhận ra Chúa và cộng đoàn quan tâm chăm sóc ta tới mức nào, gần như vượt quá ước muốn của ta. Công thức kết thúc việc tuyên khấn, ở câu 21, không phải là một lời hứa, nhưng là một lời cầu xin: “Lạy Chúa, xin đón nhận con theo lời Chúa để con được sống, và con không phải thất vọng vì đã cậy trông nơi Ngài”.

Chương 59

NGƯỜI QUÍ PHÁI HAY NGƯỜI NGHÈO

DÂNG CON CHO CHÚA

Ngày  13.4 – 13.8  – 13.12   

1 Khi có ai thuộc hàng quý phái dâng con cho Chúa trong đan viện, nếu con trẻ còn ít tuổi, thì cha mẹ làm đơn xin, như cha đã nói trên. 2 Họ lấy khăn bàn thờ bọc tờ đơn và tay con trẻ cùng với của lễ mà dâng. 3 Còn về tài sản, hoặc làm đơn thề hứa không bao giờ tự mình, hay nhờ trung gian, hay dùng cách nào mà cho con trẻ vật gì, hay tạo dịp cho nó có của, hoặc nếu họ không làm như thế mà muốn dâng cúng cho đan viện đôi chút để trả ơn, 5 thì cứ dâng tùy ý, và nếu muốn dành lại cho mình quyền hưởng hoa lợi cũng được. 6 Như thế là chặn mọi lối làm dịp cho con trẻ có thể sa vào cạm bẫy mà hư đi – mong đừng xảy ra như vậy -, đó là điều cha đã học qua kinh nghiệm rồi. 7 Những người nghèo hơn cũng làm như thế. 8 Còn ai tuyệt đối không có của gì, chỉ cần làm đơn và dâng con mình cùng với của lễ trước mặt các chứng nhân.

Chú giải:

A – Ngày 13.4

Ở chương này thánh Biển Đức đề cập tới một trong những vấn đề khó khăn nhất của đời đan tu. Đó là vấn đề kiên trì, trung tín. Giải pháp ngài nêu ra để giải quyết vấn đề này có thể làm ta ngạc nhiên, và có lẽ khiến ta bị sốc nữa. Nhưng cũng nên suy nghĩ một chút về giải pháp này.

Thánh Biển Đức khởi đi từ một nhận xét. Nếu những bước đầu đời đan tu dễ dàng, thì với thời gian khó khăn sẽ đến. Và chính khi đó những của cải chẳng hạn, mà cả những ơn huệ đặc biệt về tri thức, thiêng liêng, nghệ thuật có thể trở thành một cám dỗ thực sự. Trước cái buồn tẻ vô vị của cuộc sống, trước những vỡ mộng, trước sự thờ ơ vô cảm, có những điều mà xưa kia lúc tình yêu còn nóng bỏng ta chẳng hề quan tâm, nay lại trở thành những cám dỗ, những chướng ngại có nguy cơ khiến ta vấp ngã.

Mỗi người chúng ta đều bị cám dỗ lấy lại những gì mình đã hiến dâng, công khai hay thầm kín thu hồi những cái mình đã từ bỏ khi khấn hứa làm đan sĩ. Thánh Biển Đức cho rằng của cải vật chất là những kẻ thù nguy hiểm nhất, vì khi cho ta được một chút tự lập nào đó, chúng lại xúi dục ta bỏ qua những điều “cực khổ cam go” dẫn ta tới Thiên Chúa.

Chính vì vậy, thánh Biển Đức muốn cắt đứt tận gốc mọi cám dỗ, khi cấm tìm lại bất cứ cái gì đã từ bỏ, những củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Ta được tự do không phải để lúc nào cũng có thể quay lại đàng sau, nhưng để có thể vượt qua sóng gió. Một cuộc đời không thể cứ liên tục tới rồi lui mãi được. Có những lúc ta không thể nào quay lại đàng sau lại là lúc cứu vớt ta. Vì cái không thể đó giúp ta giáp mặt với những nỗi sợ hãi và vượt qua chúng như những quái vật náu ẩn trong ta.

B – Ngày 13.8

“Như thế là chặn mọi lối làm dịp cho con trẻ có thể sa vào cạm bẫy mà hư đi” (c.6). Có lẽ đây là một câu rất lạ tai đối với ta. Làm sao chấp nhận được là tự do của con người lại có thể gây hại cho họ? Tuy nhiên, ta đều đã kinh nghiệm, một lúc nào đó trong cuộc đời, Thiên Chúa phong tỏa ta, vây hãm ta, ngài ngăn chặn hết mọi con đường ta hy vọng có thể chạy thoát khỏi ngài. Ta bị mắc bẫy!

Ngày nào đó ta bị mắc bẫy, qua thất bại, bệnh tật, tai nạn hoặc đôi khi qua cả thành công nữa. Ta đụng chân tường, rơi vào cô đơn khủng khiếp. Chẳng còn lối thoát nào cả: con lạc đà buộc phải chui qua lỗ kim thôi. Con lạc đà chính là ta đó!

Tauler đưa ra lời khuyên sau đây cho ai lâm vào tình cảnh ấy: “Hãy ở yên, đừng chạy trốn. Hãy chịu đựng đến cùng và đừng tìm gì khác. Không phải như những người chỉ lo tìm cái mới để tránh khỏi bị hành hạ vừa khi họ rơi vào cảnh nghèo khổ nội tâm này. Hoặc họ đi than phiền và tham vấn các ông thầy, điều đó lại khiến họ lạc đường hơn nữa. Hãy ở yên trong tình trạng hiện thời. Sau bóng đêm, ngày sẽ lại sáng, mặt trời sẽ rực rỡ chói chang”.

Vì nếu Chúa dồn ta vào ngõ bí như vậy, thì không phải để làm hại ta, nhưng để mở cho ta đi vào tự do mới, vô cùng quí giá. Và đôi khi phải bị gò ép một chút vì những biến cố, những hoàn cảnh để mà đứng vững, vì nếu chỉ hơi có thể thoát khỏi tình cảnh bĩ cực đó, có lẽ ta sẽ bỏ trốn ngay. Nhưng làm thế, ta sẽ mất hết cả!

C – Ngày 13.12

Đọc chương này ta có thể ngạc nhiên và lấy làm khó chịu. Dường như thánh Biển Đức muốn dùng mọi cách để ngăn ngừa người anh em trở về đời khi họ bị cám dỗ. Ngài bảo phải cắt đứt mọi phương tiện, đặc biệt là tiền bạc. Ngài nhắc lại kinh nghiệm về vấn đề này đối với người khác, nhưng cũng có thể đối với cá nhân ngài nữa. Ta nên nhớ thánh Biển Đức thuộc một gia đình giầu có.

Như mỗi người chúng ta, vào một lúc nào đó, thánh Biển Đức hẳn đã biết tới cái vực thẳm của đời đan tu mà ta phải giáp mặt với sự trống rỗng kinh khủng chiếm cứ tâm hồn mình. Khi ấy ta tưởng chỉ mình ta phải chịu, ta thấy mình vô cùng đơn độc và bị bỏ rơi. Trước nỗi thất vọng trào lên từ cõi thâm sâu của lòng mình như thế, những điều quyết tâm, những nhân đức thường chẳng giúp ta được gì nhiều. Và nếu không được ngăn chặn, ta sẽ liều mình bỏ cuộc. Nhưng đó sẽ là điều vô cùng tai hại, như thánh Biển Đức nói ở câu 6.

Sớm hay muộn, tình trạng trên đây sẽ xẩy đến cho ta. Nếu ta chạy trốn, nó sẽ đuổi theo và bắt kịp ta ở ngã ba đường kế tiếp. Sách Gióp mô tả tình trạng này dưới những dáng vẻ hết sức bi thảm. Chẳng có cách nào thoát khỏi ngoài việc kiên trì tiếp tục, vì sẽ có một ngày, một buổi mai bình minh ló rạng, ánh dương bừng sáng, trời đất lại vui ca. Như Thomas Merton nói, khi ấy đan sĩ sẽ cảm nghiệm được rằng không chi gần kề thất vọng cho bằng hy vọng, như bông hoa tươi nở vào sáng sớm Phục Sinh.

Chương 60

NHỮNC LINH MỤC

MUỐN GIA NHẬP ĐAN VIỆN

Ngày 14.4 – 14.8 – 14.12  

1 Nếu có ai trong hàng linh mục xin nhập đan viện, thì đừng chấp thuận ngay. 2 Nhưng nếu ngài cứ một mực xin, ngài nên biết mình phải giữ mọi khoản trong tu luật, 3 không được chuẩn miễn, như đã viết: “Này bạn, bạn đến đây làm gì? ”. 4 Tuy nhiên, hãy đặt ngài đứng sau viện phụ, và ngài chúc lành hay cử hành Thánh lễ theo như viện phụ bảo; 5 nếu không, ngài đừng tự tiện làm gì. Ngài hãy biết mình phải tuân giữ luật chung và nêu gương khiêm nhường hơn nữa cho mọi người. 6 Khi có vấn đề bổ nhiệm chức vụ hay công tác gì trong đan viện, 7 ngài cứ giữ thứ tự ngày vào Dòng, chứ không theo thứ vị người ta dành cho mình vì kính chức linh mục. 8 Nếu ai trong hàng giáo sĩ cũng có nguyện vọng muốn gia nhập đan viện, hãy dành cho họ chỗ trung bình, 9 với điều kiện họ hứa giữ tu luật và bền đỗ.

Chú giải:

A – Ngày 14.4

Thoạt tiên ta thấy trong chương này thánh Biển Đức có giọng nói nhẹ nhàng đối với các linh mục từ nơi khác đến và mong muốn gia nhập cộng đoàn. Nhưng nếu đọc kỹ hơn, đặc biệt nếu so sánh với chương 58 về việc đón nhận anh em vào tập viện, thánh nhân cũng dùng cách nói chung chung như nhau. Tuy thế vẫn có một khác biệt nhỏ: -Với tập sinh, ngài nhấn mạnh tới việc phải bảo đảm rằng họ thực tâm tìm Chúa (hăm hở phụng sự Chúa, vâng lời và chịu đựng xỉ nhục). Yêu sách này không thấy nói đến trong chương 60. Vì nếu một linh mục xin gia nhập đan viện chính là bởi họ thật lòng tìm Chúa.

Vấn đề ở đây là lòng khiêm tốn. Thánh Biển Đức nhấn mạnh rất kỹ. Tại sao vậy? -Có lẽ vì sau khi đã dầy dạn kinh nghiệm với cuộc sống bên ngoài, đã đi khắp đó đây và đảm nhận nhiều trách vụ người ta có thể nghĩ mình biết nhiều, hiểu nhiều và đã tiến rất xa hơn là một tập sinh non trẻ mới vào tu. -Thế mà, trong đời đan tu, chỉ có một chiều kích cốt yếu, đó là chiều kích thời gian, chiều kích của sự tiêu hao thời gian. Người ta, ngay cả tập sinh, có thể rất mau có những kinh nghiệm đặc biệt về cầu nguyện, về thinh lặng nội tâm… Người ta có thể nghĩ mình đã tới đích, người ta có thể tưởng mình đã biết hết cả.

Nhưng cần phải kiên nhẫn lâu dài trước nhan Thiên Chúa, cần phải thực hiện nhiều giờ cầu nguyện (như người tập lái thực hiện nhiều giờ bay) để có thể bắt đầu biết sử dụng từng đà vươn lên nhỏ nhất, biết luồn vào từng hơi gió nóng để lợi dụng mà bay lên, nhưng cũng để biết nhẫn nại bay là là trên mặt đất khi chẳng có gì giúp mình lên cao được. Và nhẫn nại thì không gì có thể thay thế. Nhưng cứ nhìn các vị cao niên, ta sẽ biết Thiên Chúa có thể ban cho ta ơn nhẫn nại, nếu ta chịu dành thời gian luyện tập.

B – Ngày 14.8

Khi một linh mục xin vào đan viện, thánh Biển Đức tỏ ra hết sức khôn ngoan. Ngài còn dùng cả đến lời Chúa Giêsu nói với Giuđa khi bị ông này phản bội để hỏi linh mục: “Này bạn, bạn tới đây làm gì?” (Mt 26,50). Và Phúc Âm nói với ta ở những câu trước đó rằng Giuđa dùng cái hôn để nộp Con Người.

Câu hỏi trên đây được nêu ra trong suốt cả truyền thống đan tu, ngay từ những buổi đầu, không những cho các linh mục, mà còn cho mỗi đan sĩ. Trong sa mạc Ai Cập, viện phụ Arsen có thói quen tự hỏi mình: “Tại sao ngươi đến đây?” Còn thánh Bênađô, như ta biết, ngài thường nhắc nhớ mình bằng câu hỏi: “Bênađô, ngươi đến đây làm gì?”

Có lẽ ta cũng nên tự đặt cho mình câu hỏi ấy. Ta vào đời đan tu để tìm cái gì? Tại sao ta tới đây? Điều gì đã khiến ta hăng say dấn bước? Và hiện nay thế nào?

Có hai nguy cơ rình rập đan sĩ. Nguy cơ thứ nhất là tự cho phép mình làm đủ mọi chuyện mà mình cho là không quan trọng. Nguy cơ thứ hai là nghĩ mình đã hoàn hảo, tưởng tượng như mọi sự đều tốt đẹp. Giải pháp giúp đan sĩ tránh được hai nguy cơ này chính là lời viện phụ Pambô: “Tôi đi về với Chúa mà như thể tôi vẫn chưa bắt đầu phụng sự ngài” (Cách ngôn viên phụ Pambo, 8).

C – Ngày 14.12

Nài xin, kiên trì, chấp nhận. Ba cụm từ này tóm gọn tiến trình ơn gọi của những ai xin gia nhập đan viện. Nhưng không nên nghĩ khấn trọng thể rồi là xong. Thực ra, suốt cuộc đời ta vẫn phải trải qua ba giai đoạn thánh Biển Đức đặc biệt đề cao trong chương 60 này.

Thỉnh cầu, gõ cửa đan viện, là kết quả cụ thể của một ước mong, một đợi chờ. Nếu ta thỉnh cầu, nếu ta mong ước, chính là vì ta được thúc đẩy từ trong thâm tâm. Chứ ta không tự ý mình làm điều đó. Đúng là ta đến gõ cửa đan viện, nhưng ta không phải là nguồn gốc của ước muốn đã khiến ta làm như vậy.

Vì thế, giai đoạn hai trong tiến trình này, như thánh Biển Đức dự kiến, là kiểm chứng nguồn gốc phát sinh ước muốn kia. Kiểm chứng này được thực hiện căn cứ theo sự kiên trì. Thực vậy, khi mọi lý do sai lầm bị phát hiện, mọi nguyên do đạo đức tàn lụi đi, mà ước muốn vẫn còn, thì ước muốn ấy không do từ nơi ta, nhưng đến từ nơi khác.

Khi ấy sẽ là gian đoạn thứ ba: chấp nhận cho ước muốn ấy đưa ta đến nơi mà có lẽ ta đã không chọn để đi tới. Bằng lòng để được gọi, hầu như ngoài ý mình. Thiên Chúa thử thách ta bằng một ước muốn lớn lao hơn ta, và kêu mời ta từ bỏ những gì có thể cản trở tiếng gọi của ngài. Ta phải học cho biết ước muốn điều ngài ước muốn.

Chương 61

ĐÓN TIẾP ĐAN SĨ KHÁCH NHƯ THẾ NÀO?

Ngày 15.4 – 15.8 -15.12   

 1 Khi có đan sĩ lạ từ xa đến, nếu họ muốn trú ngụ tại đan viện 2 và bằng lòng sống theo tập tục ở đó, không yêu sách kiêu kỳ làm rối đan viện, 3 nhưng đơn sơ gặp sao ưng vậy, thì hãy tiếp nhận họ vào ở bao lâu tùy ý. 4 Nếu vì bác ái khiêm nhường, họ có phê bình hay chỉ bảo điều gì hợp lý, viện phụ hãy khôn ngoan cứu xét, biết đâu vì lý do đó mà Chúa sai họ đến. 5 Nếu về sau, họ muốn xin vĩnh cư thì đừng từ chối vì trong thời gian cư trú ta đã thẩm định được hạnh kiểm họ thế nào.

Chú giải:

A – Ngày 15.4

 Nếu tỏ ra sẵn sàng đón nhận một đan sĩ khách muốn tới sống trong đan viện, thánh Biển Đức cũng đòi một điều kiện, một điều kiện duy nhất thôi, để coi họ có thể ở lại và bền đỗ được không. Ngài nhắc lại hai lần, ở đầu câu 2 và câu 3: -nếu họ bằng lòng với cách sống ở đó; -và nếu họ hài lòng cách đơn sơ.

Điều kiện duy nhất và cơ bản để một đan sĩ từ nơi khác đến có thể gia nhập cộng đoàn, đó là họ có được tâm trạng của người đan sĩ mà bậc thứ sáu đức khiêm nhường ở chương 7 nói tới: “bằng lòng”. Đây không phải chỉ là khả năng thích ứng, nhưng qua khả năng ấy, đây là trạng thái cốt yếu của tâm hồn.

Như vậy thánh Biển Đức nhấn mạnh tới việc bằng lòng với những gì hiện có, chứ không muốn thay đổi tất cả theo cách thức và sở thích riêng. Trạng thái này am hợp với một trạng thái nội tâm sâu xa hơn nhiều: để được đón nhận, phải biết đón nhận những gì không hợp sở thích mình.

Khi cảm thấy không được đón nhận, có cảm tưởng bị loại bỏ và không được yêu thương, ta có khuynh hướng khép kín nơi mình và buộc tội người khác. Hẳn không vô ích nếu tự hỏi phải chăng khi ta cảm thấy như bị từ chối thì điều đó lại không phản ánh tâm trạng không biết đón nhận nơi ta.

B – Ngày 15.8

Với thánh Biển Đức, tiêu chuẩn để biết “đan sĩ từ nơi xa đến” có ở được với ta không đó là họ “bằng lòng sống theo tập tục” của ta, “đơn sơ gặp sao ưng vậy”. Chắc hẳn vì thế mà thánh Biển Đức nhắc lại điều ấy tới hai lần, ở câu 2 và 3.

Với từ “bằng lòng”, thánh Biển Đức đưa ta trở lại chương 7 về đức khiêm nhường. Từ này được dùng ở bậc khiêm nhường thứ sáu, đó là “Đan sĩ bằng lòng với tất cả những gì hèn kém và tồi tệ nhất. Trong mọi công việc được giao, họ tự coi mình là một công nhân vụng về và bất lực”. Như ta thấy, ý nghĩa khuất ẩn của từ này còn sâu xa hơn là một sự hài lòng đơn thuần.

Với thánh Biển Đức, tâm trạng “bằng lòng” đòi phải vượt qua cái vỏ bên ngoài của sự việc và nỗi khắc khoải, không thỏa mãn kinh niên thúc đẩy ta chạy theo hết mọi thứ ảo tưởng. Chỉ có thể “bằng lòng” khi đã khám phá ra hay ít là cảm nhận được nơi nương tựa vững chắc như đá tảng sau sự thay đổi thất thường của những sự việc, những ước muốn, những mãn nguyện.

Để khám phá ra điều đó thì phải nắm vững được lòng mình. Nhưng việc này lại đòi ta phải chấp nhận bị hụt chân, phải bằng lòng không kiểm soát cuộc sống của mình nữa. Chỉ ai đã trải qua kinh nghiệm này mới ở lại được trong đan viện. Chỉ ai không dừng ở những dáng vẻ bên ngoài hay thay đổi mới ở lại được.

C – Ngày 15.12

“Với lòng bác ái khiêm nhường” (c.4). Theo thánh Biển Đức, không có cách nào khác để sửa chữa những gì chưa hoàn chỉnh trong cộng đoàn. Sự phê bình, dù chính đáng đi nữa, cũng thất bại và có nguy cơ bị phản bác nếu không phát xuất từ “lòng bác ái khiêm nhường”. Ta đều có thể có kinh nghiệm về điều ấy vào một lúc nào đó trong cuộc sống đan tu của mình.

Đôi khi, chỉ nói một lời đơn giản cách khiêm nhường và bác ái đã đủ để sửa chữa những lạm dụng mà bao nhiêu lời khiển trách cũng chẳng thay đổi gì được. Nhưng tại sao? Đâu là sức mạnh của “lòng bác ái khiêm nhường” mà ta thường coi như biểu hiệu của một tâm hồn yếu đuối?

Trong phần đầu của chương 61, thánh Biển Đức nêu lên đặc điểm cốt yếu của “lòng bác ái khiêm nhường”. Và lòng bác ái này không chỉ liên quan tới đan sĩ từ nơi khác đến. Đặc điểm thứ nhất là bằng lòng với những gì hiện có. Thánh Biển Đức nhắc lại tới hai lần, ở câu 2 và câu 3: “contentus” (bằng lòng), “simpliciter contentus” (đơn sơ bằng lòng). Nhiều hay ít, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tính hay oán hận, hay chỉ trích. Và một trong những dấu hiệu cho thấy có tiến bộ thiêng liêng đó là khi những tiếng cằn nhằn kêu trách trong lòng ta dịu lại, khi ta giữ được thinh lặng trong nội tâm. Dù điều đó không biểu lộ ra bên ngoài, nhưng người khác vẫn cảm nhận được. 

Đặc điểm thứ hai của “lòng bác ái khiêm nhường” được thánh Biển Đức gọi là “hợp lý” (c.4). Quả thực, thường khi những lời phê bình dù chính đáng đi nữa đã chẳng mang lại kết quả chỉ vì quá gay gắt. Người ta có cảm tưởng như người phê bình mất tự chủ và bình an. Và tức khắc người ta tự hỏi: “anh ta muốn nói gì?” Rõ ràng anh ta thiếu cái “hợp lý” hay cái “lý trí lành mạnh”, thiếu sức khỏe tinh thần giúp anh ta nhìn sự việc xẩy ra cách sáng suốt. Khi ấy có đáp lại lời phê bình của anh ta cũng chỉ đưa tới bế tắc mà thôi.

Ngày 16.4 – 16.8 – 16.12    

6 Nếu trong thời gian cư trú thấy họ hay yêu sách và xấu nết thì không được cho gia nhập đan viện 7 mà còn phải nhã nhặn mời họ đi, để kẻ khác khỏi lây nhiễm sự bất hạnh của họ. 8 Nhưng nếu thấy không đáng loại, thì chẳng những nên cho gia nhập đan viện nếu họ xin, 9 mà còn nên thuyết phục họ vĩnh cư để nêu gương cho kẻ khác. 10 Vì ở đâu ta cũng phụng sự một Chúa và chiến đấu cho một Vua. 11 Hơn nữa, nếu thấy xứng đáng, viện phụ có thể nâng họ lên chỗ cao hơn một tí. 12 Vả lại, không những đan sĩ mà cả các linh mục và các giáo sĩ đã nói trên đây, viện phụ có thể cất nhắc lên chỗ cao hơn lúc mới vào đan viện, nếu thấy họ xứng đáng. 13 Nhưng viện phụ nên thận trọng, đừng bao giờ nhận một đan sĩ của một đan viện quen biết vào ở nhà mình khi không có sự đồng ý hoặc thư giới thiệu của viện phụ của đan sĩ ấy. 14 Vì có lời chép: “Điều con không muốn kẻ khác làm cho con, thì con đừng làm cho họ”.

Chú giải:

A – Ngày 16.4

Thánh Biển Đức khởi sự viết chương 61 này từ một nhận xét rất đơn giản: nỗi bất hạnh của một người có thể làm hư hỏng mọi người, và sự thánh thiện của một người có thể giúp cả cộng đoàn thăng tiến. Sau đó ngài nêu lên một nguyên tắc căn bản của mọi thứ ơn gọi kitô: tiếng mời gọi cá nhân luôn luôn mang chiều kích Giáo Hội, chiều kích cộng đoàn.

Thánh Phaolô diễn tả ý tưởng này qua hình ảnh thân xác. Tất cả chúng ta đều là những chi thể của một thân xác. Nếu một chi thể bệnh, toàn thân cùng chịu khổ. Một chi thể được vinh dự, toàn thân cùng được vui. Điều áp dụng được cho Giáo Hội cũng có thể nói về Giáo Hội nhỏ là cộng đoàn đan tu: chúng ta là những chi thể của nhau và đan viện là một thân thể (c.6), như thánh Biển Đức kết luận.

Tuy nhiên, ta cần biết rằng trong mọi cuộc sống đan tu có những lúc ta không còn thấy được sự hài hòa giữa hai chiều kích (cá nhân và cộng đoàn) trên đây nữa, nhưng chúng lại làm nảy sinh nơi ta sự căng thẳng. Hai chiều kích ấy có thể trở nên nguồn phát sinh đau khổ cho ta.

Khi ấy ta rất có thể bị cám dỗ giải quyết căng thẳng hoặc bằng cách tìm đi nơi khác hoặc bằng cách nhẫn nhục chịu đựng. Thế nhưng, sự căng thẳng ấy có thể trở nên một hồng ân, một hồng ân lớn lao, nếu ta dám sống theo tiếng Chúa mời gọi: “Hãy đến theo Ta”.

B – Ngày 16.8

Với thánh Biển Đức, có thể có hai giải pháp. Hoặc “nhã nhặn mời họ đi để kẻ khác khỏi lây nhiễm sự bất hạnh của họ”, hoặc “thuyết phục họ ở lại để nêu gương cho kẻ khác”. Không có giải pháp trung gian, giữa cái tốt và cái xấu. Như thánh Bênađô nói, “ai không tiến là lùi”. Và có nguy cơ họ lôi kẻ khác ngã theo họ.

Sự thăng tiến thiêng liêng không phải là việc riêng tư của mỗi người, chỉ liên quan tới người ấy thôi. Với thánh Biển Đức, ngoài trách nhiệm về cuộc đời mình, khi vào đan viện ta còn có một phần trách nhiệm về anh em mình nữa. Và với tiềm lực nội tâm, anh em nhỏ nhất trong ta có thể lôi kéo cả cộng đoàn.

Không phải tự nhiên mà ý thức được trách nhiệm này đối với người khác. Quả thật, ta thường có cảm tưởng rằng thế gian hay cộng đoàn vẫn rất tốt đẹp mà chẳng cần đến ta, và ta sống thế nào, tốt hay xấu, chẳng ảnh hưởng gì tới những người chung quanh. Thế nhưng, ở một tầm mức sâu xa hơn, con mắt không nhìn thấy, mà tâm hồn mới cảm nhận được, có một sự hiệp thông liên kết ta với anh em, với Giáo Hội, với thế giới, dẫu rằng ta không nhận ra.

Ý thức về điều đó đã biến đổi tâm hồn các thánh. Vì cuộc chiến của ta không phải là một cuộc chiến riêng rẽ, nhưng được hội nhập vào cuộc chiến lớn được mô tả trong sách Khải Huyền. Một cuộc chiến huy động toàn thể lực lượng trên trời dưới đất. Trong cuộc chiến vũ trụ này có phần tham chiến của ta, một phần tham chiến có thể thay đổi dòng lịch sử thế giới, cuộc sống cộng đoàn cũng như cuộc đời ta. Như thế, ta đi vào một thế giới bao gồm nhiều chiều kích trong đó mỗi người phải giữ vai trò của mình.

C – Ngày 16.12

Trong chương nói về các đan sĩ khách, thánh Biển Đức nêu lên một thực tế thiêng liêng mà ta ít để ý tới, và không chỉ có ý nghĩa đối với đan sĩ khách. Có thể tóm lược như sau: “Cách sống phóng túng của một đan sĩ có nguy cơ làm hư hỏng những đan sĩ khác, và ngược lại, cách sống chính trực của một người có thể xây dựng cho những người khác”. Điều này đúng đối với đan sĩ khách muốn xin gia nhập cộng đoàn, nhưng cũng đúng đối với mỗi người chúng ta. Như vậy, mỗi người đều mang một trách nhiệm lớn đối với chính mình, nhưng cũng còn phải chịu trách nhiệm về ảnh hưởng tốt hay xấu mình gây ra cho cộng đoàn, dù mình ở vị trí nào đi nữa. 

Vấn đề là nếu ta thường rất sáng suốt về cách sống của người khác thì lại chẳng thấy rõ mình sống ra sao, và luôn luôn sẵn sàng chữa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không khoan nhượng với những kẻ giả hình chỉ nói mà không làm, họ giống như những nấm mộ tô vôi và lôi cuốn những người bé nhỏ sa ngã theo họ. Nhưng nếu có thể có những kẻ khuyến khích người ta làm điều xấu để che đậy nỗi bất hạnh của mình và để tự bào chữa , thì cũng có những người lôi cuốn cộng đoàn vươn lên.

Trong cộng đoàn chúng ta, sự thánh thiện vẫn đang triển nở. Có những anh em đang cho thấy điều đó bằng cuộc sống của họ cách hùng hồn hơn những lời giáo huấn, những bài giảng ta thường được nghe. Những anh em ấy là những người cha thiêng liêng đích thực trong cộng đoàn, vì họ làm nảy sinh trong lòng anh em sự ham thích tìm Chúa, sự dịu ngọt của Thánh Thần.

Đúng là mọi cộng đoàn đều có nguy cơ suy thoái, nhưng cũng đúng là nơi anh em ta mỗi ngày Thiên Chúa vẫn ban cho ta chứng tá về cuộc sống được Thần Khí biến đổi. Có lẽ một số trong chúng ta chỉ nhìn thấy điều xấu và than phiền: “Hỏng hết cả, thật là khủng khiếp, chẳng ai làm điều thiện!”, trong khi một số khác lại nhận ra được Thiên Chúa đang hiện diện giữa cộng đoàn.

Chương 62

CÁC LINH MỤC CỦA ĐAN VIỆN

Ngày 17.4 – 17.8 – 17.12   

1 Nếu viện phụ muốn xin phong chức linh mục hay phó tế cho đan viện mình, ngài cứ chọn trong anh em người nào xứng đáng thi hành chức vụ ấy. 2 Còn người được tiến chức, phải giữ mình cho khỏi tự phụ kiêu căng 3 và không tự tiện làm gì ngoài điều viện phụ bảo, vì biết rằng mình phải tuân giữ kỷ luật cặn kẽ hơn. 4 Ngài đừng ỷ chức linh mục mà quên vâng giữ luật lệ và kỷ cương, nhưng càng phải tiến hơn lên trong Chúa. 5 Ngài cứ giữ thứ vị ngày gia nhập đan viện, 6 trừ khi phục vụ bàn thờ hoặc được cộng đoàn chọn và viện phụ muốn nhắc lên cao hơn, vì thấy ngài nhiều công lao đức hạnh. 7 Tuy nhiên, ngài nên nhớ mình phải giữ quy luật đã ấn định cho các trưởng nhóm và các vị phụ trách.

8 Nếu hành động cách khác, ngài sẽ bị coi như kẻ phiến loạn chứ không phải linh mục nữa. 9 Nếu được cảnh cáo nhiều lần mà không hối cải, thì xin Đức Giám Mục xác nhận cho. 10 Nếu đến thế vẫn không hối cải, tội lỗi đã hiển nhiên, 11mà còn cố chấp không muốn phục tùng, không vâng theo tu luật thì hãy loại ra khỏi đan viện.

Chú giải:

A – Ngày 17.4

Điều thánh Biển Đức sợ đó là phục vụ lại trở thành đặc ân. Ngài sợ cho viện phụ, quản lý và mọi chức vụ trong đan viện; nhưng ngài cũng sợ cho các linh mục nữa. Vì thế ngài đã viết lên chương 62 này.

Quả thực, ai trong chúng ta, một lúc nào đó, lại không bị cám dỗ lợi dụng chức vụ để tự cho mình quyền nọ quyền kia, đặc ân này đặc ân khác? Ai lại đã không bị cám dỗ đòi hỏi quyền lợi, đòi được kính trọng, nể vì, hay thu tích của cải gây thiệt hại cho lợi ích chung?

Lúc đầu, một đòi hỏi nào đó có thể coi như chính đáng, nhưng sẽ mau chóng vượt quá giới hạn. Rốt cuộc, ta sẽ lẫn lộn nhiệm vụ với thứ bậc, bổn phận với công việc phục vụ phải chu toàn. Dần dần ta sẽ để mình bị cuốn hút theo khuynh hướng tự cao, ta sẽ nhìn người khác với con mắt kẻ cả. Nguy cơ là thế!

Thánh Biển Đức không khinh thường chức linh mục và người đã lãnh nhận chức thánh này, nhưng ngài nhắc nhở ta rằng lãnh nhận chức linh mục là để phục vụ. Là hình ảnh của đấng đã không đòi phải được coi ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng trái lại đã tự hạ, thừa tác viên Chúa Kitô cũng phải ứng xử như vậy, phải trở nên người tôi tớ.

Trong đan viện không có người lớn kẻ nhỏ, không có chủ và tớ, không có người thông thái kẻ thất học. Không, trong đan viện chỉ có những người anh em, kẻ cao niên người trẻ tuổi. Và có viện phụ đại diện Chúa Kitô Tôi Tớ. Đó là những tước hiệu vinh quang mà ta có thể đòi hỏi cho mình. Ngoài ra tất cả chỉ là kiêu căng, là hư ảo!

B – Ngày 17.8

Trong cộng đoàn, người nào được biệt cách thì luôn luôn bị cám dỗ bởi “tự phụ kiêu căng” (c.2). Ở đâu cũng vậy, dù đối với chức linh mục hay với một chức vụ nào khác. Chuyện này chẳng có gì là mới cả. Trong Thánh Kinh ta thấy Israel không ngừng kiêu hãnh vì được tuyển chọn.

Tuy nhiên, trong Phúc Âm nhiều lần Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rằng được chọn, được gọi chẳng mang lại cho ta đặc quyền nào khác ngoài đặc quyền ở chỗ rốt hết, đặc quyền của kẻ phục vụ. Ta vẫn không thể quên lời Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Thủ lãnh các dân thì…, phần các con thì không phải thế”. Và chính ngài đã thực hiện lời nhắn nhủ đó khi trong bữa tiệc ly ngài rửa chân cho các môn đệ của mình.

Nếu cộng đoàn đan viện được xây dựng trên tinh thần Phúc Âm, thì đấy là cách ta phải sống. Ơn gọi của ta là ơn gọi làm tôi tớ. Ta có thể dịch câu “Hãy coi họ thương mến nhau chừng nào!” thành câu “Hãy coi họ phục vụ nhau tận tình biết mấy!”.

Ai quên điều đó thì sớm hay muộn cũng sẽ có thể chống đối tu luật và ngay cả cuộc sống đan tu, như thánh Biển Đức kết luận ở câu 11. Khi ấy dù linh mục hay không họ sẽ chẳng còn được ở lại trong cộng đoàn nữa.

C – Ngày 17.12

Trong chương này, thánh Biển Đức nói về linh mục trong đan viện theo hai phương diện khác nhau. Phương diện thứ nhất liên quan tới những nguy cơ của chức linh mục, trong khi phương diện thứ hai nhắm tới tiếng gọi mà những nguy cơ ấy có thể gợi lên trong tâm hồn đương sự.

Những nguy cơ nói đây ta dễ dàng nhận ra, đó là hư danh và kiêu ngạo (c.2), qua những việc như tự cho mình có quyền làm những điều mà viện phụ không bảo (c.3), nại cớ là linh mục để quên giữ tu luật (c.4) và tự nâng mình lên cao hơn vị trí của mình (c.5). Những chuyện đó có thể tóm gọm bằng đề tựa một bài ngụ ngôn của La Fontaine: “Con ếch muốn làm lớn như con bò”.

Để chống lại những nguy cơ ấy, thì có ân sủng được ban kèm theo với sự kiện được gọi lên chức linh mục, và thánh Biển Đức tóm gọn trong một câu khác nào như một viện ngọc quí, ở giữa chương, và cuối câu 4: “ngài càng phải tiến hơn lên trong Chúa”. Ân sủng này làm nên đối trọng với thói hư danh và tính kiêu ngạo, là những nết xấu khiến ta bất tuân, chống đối và thờ ngẫu tượng.

Đó là ý nghĩa sâu xa của chức linh mục đan tu. Không đưa mình lên, không tìm chỗ nhất, không tự miễn chước bất cứ điều luật nào. Đàng khác, lời nguyện truyền chức bao hàm một lần nữa những lời khấn thanh khiết và vâng phục. Nhưng vấn đề là “phải tiến hơn lên trong Chúa”, trao ban sự sống, trở nên người cha theo ý nghĩa sâu xa của từ này, bằng cách chính mình đi vào con đường sự sống, không phải bằng những những bài diễn thuyết hùng hồn, những bài giảng hay, nhưng bằng sự rao giảng hay nhất có thể: là chính cuộc đời của mình.

Đối với mỗi người chúng ta, nhất là đối với mỗi linh mục, chương này có thể là cơ hội giúp ta đọc lại cuộc sống của mình, nhìn lại cách chân thành và sáng suốt điều ta đang thực sự tìm kiếm. Ta có thuộc số những người chỉ ước ao “tiến hơn lên trong Chúa” không? Hay thuộc số những người đòi hỏi quyền lợi, tìm kiếm lý do để đi đường tắt?

Chương 63

THỨ VỊ TRONG ĐAN VIỆN

Ngày 18.4 – 18.8 – 18.12  

1 Trong đan viện, mọi người hãy giữ thứ vị của mình, được quy định theo ngày vào dòng hoặc theo công đức hay theo viện phụ ấn định. 2 Tuy nhiên, viện phụ đừng gây xáo trộn trong đoàn chiên đã được ủy thác cho mình và chớ tự tiện định đoạt điều gì bất công. 3 Ngài hãy luôn tâm niệm mình sẽ phải tường trình với Chúa về mọi phán đoán và hành vi của mình.

4 Vậy anh em hãy cứ theo thứ vị viện phụ đã ấn định, hoặc đã nhận được lúc vào dòng mà lên lãnh bình an, rước lễ, xướng Thánh Vịnh và đứng trong ca toà. 5 Bất luận ở đâu cũng đừng theo tuổi mà quy định thứ vị 6 vì Samuel và Đaniel tuy còn là thiếu niên mà đã xét xử cả những bậc lão thành.

7 Bởi thế, ngoại trừ những ai được viện phụ nhắc lên vì lý do chính đáng hay có đủ lẽ hạ xuống như đã nói trên, còn mọi người khác hãy giữ chỗ mình theo thời gian nhập dòng. 8 Ví dụ người tới đan viện vào giờ thứ hai, dù tuổi tác hay danh phận thế nào, cũng phải tự coi là đàn em của người đến vào giờ thứ nhất. 9 Tuy nhiên, đối với trẻ em, trong bất cứ việc gì, mỗi người hãy lo cho chúng tuân giữ kỷ luật.

Chú giải:

A – Ngày 18.4

         Không phải tuổi tác hay địa vị ấn định thứ tự trong cộng đoàn, nhưng là thời điểm gia nhập đan viện. Viện phụ phải cẩn thận đừng thay đổi qui luật này mà không có lý do. Vì điều xây dựng nên cộng đoàn đan tu, trước hết đó là tiếng gọi của Thiên Chúa, tiếng gọi riêng tư Thiên Chúa gửi đến mỗi người vào một lúc rõ rệt trong cuộc đời. Nhưng cũng là lời đáp lại của con người, vì được gọi thôi thì chưa đủ, còn phải hướng chiều theo ân sủng Thiên Chúa ban cho ta nữa.

Như vậy, thứ tự trong cộng đoàn là kết quả của sự phối hợp giữa ân sủng Thiên Chúa, đấng kêu gọi và tự do của con người, kẻ đáp lại. Ta có thể thắc mắc cách chính đáng rằng có khi việc đáp trả không ngang tầm với tiếng gọi. Trong trường hợp này thì cho lùi xuống thứ vị thấp hơn có lẽ là điều hợp lý. Vả lại thánh Biển Đức đã tiên liệu việc một anh em bị hạ thứ vị vì những lý do chính đáng (c. 7). Nhưng đó chỉ là ngoại lệ.

Khi nhấn mạnh tới thứ vị trong cộng đoàn, thánh Biển Đức muốn ta hiểu sức mạnh phi thường của lời kêu gọi không thể thu hồi mà Thiên Chúa gửi đến ta. Dù ta đáp lại như thế nào, Thiên Chúa vẫn yêu thương ta. Ngài không bao giờ bỏ ta. Một ngày nào đó, đôi khi mãi tới cuối đời, ta sẽ chịu quyết tâm đi theo ngài. Chúa nhẫn nại, như chỉ có tình yêu là biết nhẫn nại, bởi vì ngài đã chia sẻ thân phận yếu hèn của ta, cho tới tận cùng.

B – Ngày 18.8

Có nhiều cách xếp đặt thứ vị. Những tiêu chuẩn để xếp đặt có thể là tuổi tác, sức lực, trí thông minh, sự giầu có, sắc đẹp, năng lực, sức lôi cuốn v.v. Thứ vị mỗi người trong xã hội, trong công việc sẽ tùy thuộc sự phối hợp các tiêu chuẩn này. Đó là những tiêu chuẩn được sử dụng trong mọi xã hội con người, nhưng có thể thay đổi tùy theo thời đại, cách thế, nhận thức.

Tuy nhiên, thánh Biển Đức không căn cứ theo những tiêu chuẩn ấy, ngài coi chúng chỉ có vai trò hoàn toàn phụ thuộc. Nhưng ngài muốn thứ vị được ấn định theo ngày vào đan viện hay theo sự xếp đặt của viện phụ. Ta có thể ngạc nhiên về điều đó, vì qua kinh nghiệm ta biết rằng không phải vào đan viện lâu hơn mà thánh hơn. Tại sao thánh Biển Đức theo những tiêu chuẩn ấy?

Những tiêu chuẩn nêu ra ở trên kia, những tiêu chuẩn xác định vị trí trong xã hội, tất cả đều có cùng một khuyết điềm, đó là chúng không bền. Có nghĩa là không vị trí nào dựa theo những tiêu chuẩn ấy mà được bảo đảm, bởi vậy phải phấn đấu để duy trì nó. Khi ấy con người sẽ chỉ lo tìm kiếm và duy trì vị trí của mình. Với thánh Biển Đức, những chuyện như thế chỉ là uổng phí sức lực, vì ngài nghĩ rằng đan sĩ còn nhiều việc quan trọng hơn phải làm, nên ngài chọn một tiêu chuẩn không thể thay đổi được nữa.

Thực vậy, để đan sĩ có thể tập trung sức lực vào điều cốt yếu, thánh Biển Đức đã tránh cho họ khỏi lâm vào cuộc chiến kiếm tìm và duy trì địa vị, một cuộc chiến gây tổn thất biết bao nghị lực nơi người đương thời. Nhưng ngài không làm thế để khiến ta sống ươn ái trong một cuộc sống tầm thường. Trái lại, khi làm thế, ngài muốn ta được tự do mà dồn tất cả nghị lực vào cuộc chiến thiêng liêng.

C – Ngày 18.12

Một trong những ân huệ lớn của đời đan tu là ta không cần phải đi tìm một chỗ đứng cho mình, và không cần phải chiến đấu để bảo vệ nó. Ta chẳng cần chứng mình gì với ai cả. Nguyên việc gia nhập đan viện đã cho ta được ở giữa cộng đoàn rồi. Và dầu có chuyện gì xẩy ra thì đó vẫn là chỗ của ta cho tới chết.

Quả thực, chính ngày ta vào đan viện, ngày ta ngỏ lời xin và được chấp nhận, chính ngày đó sẽ vĩnh viễn ấn định chỗ của ta, thứ vị của ta giữa anh em. Dù công trạng và khả năng ra sao, dù có nhận chức vụ gì, ta sẽ lại trở về chỗ của mình sau khi kết thúc nhiêm vụ.

Ở một thời đại mà người ta phải không ngừng phấn đấu để chiếm được một vị trí và duy trì nó, điều ấy có thể khiến ta ngạc nhiên. Nhưng thánh Biển Đức không muốn đan sĩ phải hao tốn sức lực vì chuyện đó. Khi dành cả một chương để nói về thứ vị trong cộng đoàn, hẳn thánh nhân muốn nhắn nhủ ta một điều gì.

Thực vậy, nếu ngài giải tỏa cho ta khỏi nỗi bận tâm kiếm tìm địa vị, chính là để ta hướng sức lực tới một mục đích khác cốt yếu hơn. Chẳng có gì phải chứng minh, phải bảo vệ nên ta có thể dốc toàn lực để chuyên lo phục vụ và sốt sắng nguyện cầu. Khi ấn định vị trí của ta một lần dứt khoát cho cả cuộc đời, thánh Biển Đức giúp ta được hoàn toàn tự do để sống lý tưởng đan tu mà ta đã chọn lựa. Lợi dụng được tự do ấy hay không là tùy ở ta.

Ngày 19.4 – 19.8 – 19.12   

10 Vậy đàn em hãy kính trọng đàn anh, đàn anh hãy yêu thương đàn em. 11 Về việc xưng hô, không ai được phép gọi suông tên người khác. 12 Nhưng đàn anh hãy gọi người dưới là “em”, còn đàn em phải xưng đàn anh là “cha”, để tỏ lòng kính trọng họ như cha.

13 Vì tin viện phụ là đại diện Chúa Kitô, nên ta gọi ngài là cha viện phụ, không phải vì ngài tự gán cho mình danh hiệu đó, nhưng vì ta tôn kính và yêu mến Chúa Kitô. 14 Còn riêng ngài, ngài hãy ý thức điều đó và sống sao cho xứng đáng với danh dự ấy.

15 Anh em gặp nhau bất cứ ở đâu, đàn em phải xin đàn anh chúc lành cho. 16 Khi đàn anh đi qua, đàn em hãy đứng lên nhường chỗ cho đàn anh ngồi, và đừng tự tiện ngồi khi đàn anh chưa bảo ngồi, 17 hầu giữ đúng như lời đã chép: “Anh em hãy ân cần tôn kính lẫn nhau”.

18 Trẻ em và thanh niên hãy giữ thứ vị của mình ở nhà nguyện cũng như ở nhà cơm. 19 Còn ở ngoài những nơi ấy và bất cứ ở đâu, phải trông coi sửa dạy chúng cho tới khi đến tuổi khôn.

Chú giải:

A – Ngày 19.4

Với thánh Biển Đức, danh xưng là một ơn gọi. Vì thế viện phụ phải “tỏ ra xứng đáng với danh xưng của mình” (c.14). Nhưng với mỗi thành viên trong cộng đoàn cũng thế. Danh xưng “anh” hoặc “cha” của mỗi người chúng ta tự nó đã là một chương trình sống, là sự nhắc nhở về ơn gọi đã được ban cho ta.

Quả thực, ta được gọi để trở nên anh em của anh em ta, của mỗi người trong các anh em ta. Nếu suy nghĩ một chút ta sẽ thấy điều đó có nhiều hệ quả. Trước hết, để trở nên anh em, phải trở nên con cái đã. Mỗi ngày, và nhiều lần trong ngày ta đọc kinh Lạy Cha. Trở nên anh em tức là cuộc sống ta phải bắt nguồn từ ơn làm nghĩa tử Thiên Chúa.

Điều ấy có nghĩa là ta liên kết với nhau trong tương quan huynh đệ không do thiện cảm hay sở thích, nhưng vì ta thuộc về Thiên Chúa là Cha chúng ta. Trở nên anh em của anh em ta là dấu hiệu đích thực về cuộc sống nội tâm của ta: càng là con của Cha ta sẽ càng là anh em với nhau. Tình huynh đệ đan tu là tình huynh đệ phát xuất từ trên, chứ không phải từ dưới.

Sau ơn gọi làm anh em, thánh Biển Đức nói tới ơn gọi làm “cha”. Đối với ngài, đan sĩ nào cũng đều là bậc cao niên của một hay nhiều anh em khác, những người đến sau họ. Ơn gọi làm cha không tùy thuộc một đặc sủng nào, nhưng có tính thiết định của ơn gọi đan tu, là truyền ban sự sống qua các thế hệ nối tiếp nhau. Tất cả chúng ta đều là những mắt xích thiết yếu và sống động trong tiến trình truyền ban sự sống ấy. Tất cả chúng ta đều tham gia vào trách nhiệm lớn lao là chuyển giao, trong những chiếc bình bằng đất, kho tàng đã nhận được từ Thiên Chúa. Ta phải sống thế nào hai ơn gọi làm “anh em” và làm “cha”? Ta phải sống thế nào trách nhiệm này?

B – Ngày 19.8

Cách xưng hô tiến hóa theo thời, ý nghĩa của chúng cũng thay đổi do ảnh hưởng của não trạng hay khái niệm của thời đại. Nhưng điều đó không hề thay đổi thực tại sâu xa mà thánh Biển Đức muốn diễn tả. Thực tại này có thể tóm lại trong ba ý tưởng cơ bản nói lên những mối tương quan trong đan viện.

Ý tưởng thứ nhất, đó là ý tưởng về tình huynh đệ. Khi vào đan viện, vào cộng đoàn, ta được mời gọi trở nên anh em của những người anh em. Ta được mời gọi làm anh em của nhau. Không phải bạn hữu hay bạn bè, nhưng là anh em.

Ý tưởng thứ hai, đó là ý tưởng về việc sinh hạ. Ta sinh vào đời đan tu nhờ được các vị đi trước cưu mang. Đến lượt mình, ta phải cưu mang những anh em đến sau ta để họ sinh ra và lớn lên trong đức tin.

Sau cùng, ý thưởng thứ ba là ý tưởng về vị trí của viện phụ, người “giữ vị trí Chúa Kitô” trong cộng đoàn. Điều này mang hai ý nghĩa. Trước hết, đó là Chúa Kitô ở trung tâm cộng đoàn, viện phụ chỉ “đại diện” cho ngài. Sau là cuộc đời ta được xây dựng trên Thập Giá, nghĩa là ta có mặt nơi đây vì phần rỗi thế gian.

C – Ngày 19.12

Nếu đọc lướt qua, có lễ đoạn luật chỉ như là bản hướng dẫn những cách ứng xử trong đời sống đan tu. Đọc lướt qua sẽ không thấy được điều thánh Biển Đức muốn, vì ta mới chỉ đọc theo mặt chữ thôi. Điều thánh Biển Đức muốn nói ở đây còn sâu xa hơn mặt chữ nhiều.

Thực vậy, đâu là những khuynh hướng tự nhiên, những khuynh hương thế tục mà ta dễ dàng chiều theo? Có thể thể tóm lại trong hai điểm. Thứ nhất là ta chỉ tôn trọng và yêu quí một số người, một nhóm nhỏ được ta chọn lựa; thứ hai là cho những người khác cảm thấy họ không thuộc về phe ta. Theo ngôn từ của Phúc Âm, ta có thể nói đối với thánh Biển Đức thì “giữa chúng ta không được như vậy”.

Cộng đoàn đan viện không xây dựng trên nguyên tắc loại trừ hay kén chọn hoặc khinh thị ai. Nhưng xây dựng trên việc triệt để xét lại cách ta phán đoán và ứng xử. Phải kính trọng người cao niên không phải vì họ đáng kính trọng, nhưng vì ơn gọi Thiên Chúa ban đã làm họ đáng kính trọng, bởi lẽ Thiên Chúa đã đặt tay trên họ. Cũng thế, phải yêu thương người trẻ không phải vì họ vừa ý ta, nhưng vì Thiên Chúa đã đánh động con tim họ và vì họ cố gắng đi theo tiếng Chúa gọi từ trong tâm hồn.

Không phải cứ chỉ trích và phê phán người khác mà làm cho họ tốt hơn lên được, nhưng chỉ được vậy bằng cách yêu thương và tôn trọng họ. Đôi khi có những cách ăn ở cần phải cương quyết sửa chữa, nhưng sẽ chẳng sửa được gì nếu không yêu thương. Chỉ ai thấy mình được yêu thương mới có thể vượt qua những giới hạn các mình, vì trước mỗi người anh em, thách đố lớn ta cần dẹp bỏ có thể tóm gọn như sau: Nếu là Chúa Giêsu, ngài sẽ tiếp xúc với anh ấy, nhìn anh ấy, nghe anh ấy như thế nào?

Chương 64

VỀ VIỆC BẦU VIỆN PHỤ

Ngày 20.4 – 20.8 – 20.12   

1 Trong việc bầu viện phụ, bao giờ cũng theo quy tắc này là phải đặt lên người nào đã được cả cộng đoàn nhất trí tuyển chọn vì lòng kính sợ Chúa, hoặc do một thiểu số dù rất nhỏ trong cộng đoàn, nhưng có phán đoán lành mạnh hơn. 2 Phải chọn người có đời sống đạo đức và giáo lý khôn ngoan, dù là người ở thứ vị rốt hết trong cộng đoàn.

3 Nếu cả cộng đoàn cùng toa rập để chọn người đồng lõa với tính mê nết xấu của mình – mong đừng thế – 4 và nết xấu ấy đến tai Đức Giám Mục giáo phận, các viện phụ hay giáo hữu chung quanh bằng bất luận cách nào, 5 thì các ngài hãy liệu ngăn cản để mưu ác không thành, và lo đặt người xứng đáng lên quản trị nhà Chúa, 6 vì hẳn các ngài biết rằng sẽ được trọng thưởng, nếu các ngài làm việc ấy cách trong sáng và nhiệt thành vì Chúa; trái lại sẽ mắc tội, nếu các ngài không quan tâm.

Chú giải:

A – Ngày 20.4

Trong một cuộc bầu cử, thời điểm tế nhị nhất đó là ngay trước khi bỏ phiếu. Vị chủ tọa phải giúp anh em vượt qua những lợi ích riêng tư, vượt qua thiên kiến, tình cảm để biết “kính sợ Chúa”. Phải giúp cộng đoàn thực hiện cuộc bầu cử theo tinh thần đức tin.

Điều đó đúng cho việc bầu viện phụ hay quyết định lập nhà mới, nhưng cũng phải áp dụng cho mọi thời điểm quan trọng của cộng đoàn, của cuộc đời mỗi người ta. Người ta vẫn luôn có thể tìm ra được những lý lẽ rất hay, rất nhân bản để bám lấy ý riêng, để mưu cầu tư lợi. Người ta có thể sống đời đan tu như thể thực hiện bất cứ nghề nghiệp nào. Nhưng có những thời điểm then chốt, thời điểm chủ yếu ta phải ra khỏi cách nghĩ đó để sống theo tinh thần đức tin.

Một trong những niềm vui lớn nhất của viện phụ là thấy cộng đoàn, thấy các đan sĩ của mình sống như thế. Và ngài cũng phải đau khổ lớn lao khi thấy anh em hay cộng đoàn co cụm lại trong ích kỷ, hay chỉ tìm theo ý riêng. Khi ấy, điều duy nhất ngài có thể làm là cầu nguyện để cho ơn Chúa thắng được sự từ chối của con người.

B – Ngày 20.8

Khi đọc những chương tu luật nói về viện phụ, có lẽ mọi viện phụ đều tự hỏi liệu làm bề trên có phải là chỗ của mình không, liệu mình có được sinh ra để lãnh nhiệm vụ này không. Nếu những năm đầu viện phụ mệt mỏi vì trách nhiệm rộng lớn, vì những tình huống phức tạp, thì với thời gian ngài sẽ cảm thấy một khó khăn khác. Không phải khó khăn đến từ cộng đoàn, từ tương quan với anh em hay từ những việc phải làm, nhưng từ chính bản thân ngài.

Thực vậy, dần dần ngài nhận ra rằng ngài không có khả năng ngang tầm với những gì phải thực hiện để mưu ích cho cộng đoàn. Mặc dầu mọi cố gắng, càng ngày ngài càng ý thức rõ hơn những giới hạn, những vụng về, nỗi bất lực của mình trước một số tình huống hay một số cá nhân. Ngài biết phải làm gì, nhưng lại không làm được.

Và thường thì ngài ý thức được điều đó không phải chỉ do những lời trách cứ và phê bình, nhưng nhất là do lòng khiêm tốn của anh em. Vì nếu viện phụ có sứ mệnh hướng dẫn cộng đoàn đi tìm Chúa, thì khi bầu chọn viện phụ cộng đoàn lãnh sứ mệnh đào tạo ngài, dậy ngài biết để cho Thánh Thần hướng dẫn.

Mỗi khi gặp gỡ anh em, viện phụ nhận được rất nhiều từ những lúc tiếp xúc ngắn ngủi ấy. Họ dậy cho ngài biết được Thiên Chúa hoạt động ra sao trong cuộc đời họ, và như thế họ giúp ngài nhận ra bàn tay Chúa nơi cộng đoàn và nơi cuộc sống riêng của ngài.  

C – Ngày 20.12

Khi đọc Phúc Âm, một điều làm ta rất ngạc nhiên, đó là trong khi các môn đệ Chúa Giêsu không ngừng tranh cãi nhau, chỉ trích nhau để mong được chiếm chỗ nhất, thì trái lại những người pharisêu, những người sađốc và những người thuộc phái Hêrôđê hiệp nhất với nhau để chống đối ngài. Dường như hiệp nhất để chống đối thì dễ hơn hiệp nhất để ủng hộ, hiệp nhất để làm điều xấu thì dễ hơn hiệp nhất để làm điều tốt.

Thánh Biển Đức cảnh giác ta về thứ hiệp nhất dựa trên thói xấu chứ không trên điều thiện. Thật kỳ lạ khi ta quá dễ dàng hiệp nhất để làm điều xấu, nhưng lại rất khó khi muốn làm điều thiện. Đối với viện phụ, có những lúc xem ra ngài bị cám dỗ khá nặng không dám khiển trách nết xấu nơi anh em, vì muốn được bình an và duy trì cái coi như là sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Đấy là điều thánh Biển Đức nêu rõ trong đoạn luật này.

Quả thực, trước sự hùa theo nhau để làm điều xấu, không dễ mà dám khiển trách hay sửa chữa, khi làm như thế sẽ có thể gây xáo trộn và bất mãn. Đơn giản hơn, thoải mái hơn thì cứ ở yên trong cái bình an giả tạo bởi những đồng lõa và dối trá, cứ để mặc. Dầu sao thì rồi cũng xong!

Tuy nhiên, thánh Biển Đức mời gọi viện phụ hành xử cách khác. Đó là khơi dậy nơi mỗi người anh em những gì là chân, thiện, mỹ để nhờ thế mà cộng đoàn được xây dựng. Cách hành xử đó là cách làm của lòng nhân ái đích thực. Vì đã có thể nhận ra những bóng tối nơi ta, nơi mỗi người trong ta, nên lòng nhân ái này biết rằng ta còn có gì hơn bóng tối nữa, và giúp ta nhận thấy được trong con tim của người anh em phần ánh sáng chan hòa nơi đó. Lòng nhân ái đích thực không mù quáng, nhưng tin tưởng Thiên Chúa luôn luôn chiến thắng sự chết. Thánh Biển Đức cho rằng mối hiệp thông thực sự theo Phúc Âm được xây dựng trên điều tốt nhất nơi ta, trên nỗi khát khao Thiên Chúa tiềm ẩn trong ta, ở tận chỗ thâm sâu nhất của lòng ta.

Ngày 21.4 – 21.8 – 21.12   

7 Người được đặt lên làm viện phụ, hãy luôn nhớ gánh nặng nào mình đã đón nhận và với Ðấng nào mình sẽ phải thưa lại về cách quản trị của mình. 8 Ngài nên biết phải phục vụ hơn là cai trị. 9 Vậy ngài phải thông thạo luật Chúa để biết nơi trích dẫn những điều mới điều cũ. Ngài phải thanh khiết, điều độ, khoan dung, 10 bao giờ cũng giầu tình thương hơn xét đoán nghiêm ngặt để chính ngài cũng được đối xử như thế. 11 Ngài phải ghét nết xấu và thương anh em. 12 Ngay cả khi quở trách, ngài cũng phải cư xử khôn ngoan, không gì thái quá, kẻo khi muốn cạo sạch rỉ sét lại làm vỡ bình. 13 Ngài chớ bao giờ quên phận mình dòn mỏng và nhớ đừng đạp giập cây sậy đã gẫy.

14 Nói thế, cha không có ý bảo ngài dung túng thói hư tật xấu nhưng phải bài trừ những tật xấu ấy trong tình bác ái khôn ngoan, sao cho phù hợp với từng người, như cha đã nói. 15 Ngài hãy cố gắng cư xử thế nào cho anh em yêu mến hơn là sợ hãi.

16 Đừng hiếu động cũng đừng lo lắng, đừng quá khích cũng đừng cố chấp, đừng ghen tương cũng đừng nghi ngờ quá độ; nếu không, ngài sẽ chẳng bao giờ được bình an thư thái. 17 Khi phải ra lệnh, ngài hãy suy trước tính sau cho thật chín chắn. Dậy bảo điều gì, bất luận đạo đời, ngài cũng nên cân nhắc thận trọng một vừa hai phải. 18 Nhớ gương cẩn trọng của thánh Giacóp khi người nói: “Nếu tôi thúc đàn chiên đi quá sức, chúng sẽ chết hết trong một ngày”. 19 Vậy, ngài hãy ghi nhận lời đó và nhiều chứng từ khác về sự cẩn trọng là mẹ các nhân đức, để biết điều hoà mọi sự sao cho người mạnh còn muốn làm thêm và kẻ yếu không lẩn trốn.

20 Nhất là trong mọi sự, ngài hãy giữ đúng tu luật này; 21 để khi đã phục vụ tốt, ngài sẽ nghe Chúa phán với mình như với người tôi tớ tốt lành đã cứ đúng giờ phân phát lúa gạo cho các bạn đồng nghiệp rằng: 22 “Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy làm quản lý tất cả tài sản của ông”.

Chú giải:

A – Ngày 21.4

Trong đời mình, viện phụ nào cũng gặp một bước rất tế nhị, một bước rất khó vượt qua, như thánh Biển Đức mô tả ở phần hai chương 64 này. Thực vậy, khi khởi đầu nhiệm vụ, viện phụ nào cũng có đầy những giấc mơ rất lý thú, những dự phóng rất đẹp. Và với tất cả nghị lực, ngài xả thân thi hành bổn phận mà không hề tính toán.

Rồi đến ngày vỡ mộng. Ngài đụng phải những trì trệ, những thói quen, những nết xấu thâm niên cố đế. Ngài cứ tưởng mọi sự đều sẽ dễ dàng, đều thành công mau lẹ. Thế nhưng ngài đã kinh nghiệm được nỗi bất lực của mình. Ngài thấy mình đứng trước một thử thách rất lớn. Vì khi ấy ngài có thể bị cái vỡ mộng làm cho bi quan rồi chán nản. Mà thực ra thì cộng đoàn đã không đáp ứng được điều ngài mong đợi. Ngài cảm thấy mình là nạn nhân!

Nhưng có hẳn vậy không? Trong chương 64 này, thánh Biển Đức mời gọi viện phụ điều chỉnh quan niệm của mình. Viện phụ phải bỏ qua những dự án, những ý tưởng và giấc mơ của mình để yêu thương những người anh em Chúa đã giao phó cho ngài, yêu thương cái đoàn chiên đôi khi có tính thất thường khó dậy. Khi ấy ngài mới nhận ra rằng ngài được bầu lên để phục vụ.

Nhưng phục vụ cái gì? Không phải phục vụ những giấc mơ, những dự án, mà phục vụ lời hứa Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim mỗi đan sĩ của mình. Vì mọi đan sĩ đều là những “vị thánh trong tiềm năng”. Viện phụ phải bước đi theo bước của họ, để họ khỏi chết hết trong một ngày. Ngài phải sửa dậy mà không được làm vỡ bình. Ngài phải biết nhìn bằng cặp mắt của người khác. Và để ngài biết được điều đó, thánh Biển Đức đề nghị một cách duy nhất, đó là ngài hãy nhớ đến sự dòn mỏng của mình. Vì chỉ khi biết chấp nhận chính mình, ngài mới có thể đón nhận và yêu thương anh em theo thực trạng của họ.

B – Ngày 21.8

Trong trình thuật về việc thánh Bênađô trở lại với chức vụ viện phụ, Guillaume de Saint Thierry đã nhắc lại những nét chính trong phần thứ hai này của chương 54. Và tác giả đã thêm vào một yếu tố rất quan trọng, đó là vai trò của anh em trong sự kiện ấy.

Với Guillaume de Saint Thierry, chính lòng khiêm tốn của anh em đã khiến thánh Bênađô trở lại chức vụ. Không phế bỏ viện phụ vì ngài quá đòi hỏi và quá nghiêm khắc với mình, các đan sĩ Clairvaux chấp nhận bị khiển trách. Từ đó, viện phụ đã bắt đầu có những nghi ngại về nhiệt huyết của mình, bắt đầu khám phá ra lòng nhân hậu khi cảm nghiệm những giới hạn của riêng mình.

Nếu viện phụ giữ vai trò thiết yếu trong cộng đoàn, thì không được quên rằng ngài là hoa trái của cộng đoàn. Chính cộng đoàn sinh ra viện phụ. Tùy theo mức độ ta để cho ơn Chúa tác động nơi mình mà viện phụ có thể thực hiện trách nhiệm của ngài nhiều hay ít. Chẳng vậy, cộng đoàn sẽ khô chồi và mọi việc sẽ uổng công.

Không có cộng đoàn đan tu nào mà không có viện phụ, thì cũng không có viện phụ nào mà không có cộng đoàn. Nếu cộng đoàn không trợ giúp viện phụ, không nâng đỡ ngài, nếu anh em không thưa “vâng” với Chúa, viện phụ sẽ chẳng làm được gì. Như Guillaume de Saint Thierry lưu ý, chính sự vâng phục và lòng khiêm tốn của các đan sĩ Clairvaux đã giúp cho thánh Bênađô có được lòng nhân hậu, và trở nên một viện phụ như Chúa mong muốn.

C – Ngày 21.12

Trong đan viện, khi có cuộc bầu cử viện phụ, anh em thường quan tâm tới vấn đề sức khỏe thể lý hay sự yếu kém về tâm lý của những vị có thể được bầu lên. Tuy thế, ở câu 13 của chương này, dường như thánh Biển Đức nghĩ ngược lại khi bảo viện phụ “chớ bao giờ quên phận mình dòn mỏng”. Nhưng vấn đề là phải biết thánh Biển Đức nói tới thứ dòn mỏng nào. Vì đối với ngài, ý thức về sự dòn mỏng có liên hệ với khả năng thương cảm mà thánh nhân đòi hỏi nơi viện phụ.

Những mẫu gương lớn về lòng thương cảm trong thế kỷ vừa qua, như Mẹ Têrêsa Calcutta và ông Jean Vannier, có thể nêu cho ta cách hành xử đúng. Mẹ Têrêsa là một phụ nữ cứng rắn hiếm thấy, có cá tính mạnh mẽ phi thường, và sức khỏe tốt đã giúp Mẹ có thể sống trong những điều kiện rất khó khăn. Còn ông Jean Vannier, chỉ cần nhìn vào những hoạt động của ông cũng đủ nhận ra lòng thương cảm nhắm tới một lãnh vực khác, tới kinh nghiệm về một sự dòn mỏng sâu xa hơn.

Kinh nghiệm về sự dòn mỏng mà thánh Biển Đức nói tới thuộc một phạm vi hoàn toàn khác. Nó đụng tới chính gốc rễ của kinh nghiệm nội tâm và được biểu lộ cách tuyệt vời trong hai đoạn văn của thánh Phaolô: Ở Rm 7,15 và 24: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn, tôi không làm, còn điều tối ghét, tôi lại cứ làm. … Tôi thật là một người khốn nạn!” Và ở Rm 8,28: “Ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”. (X. Tv 30,8: “Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở, vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn”).

Như vậy, kinh nghiệm về sự dòn mỏng thánh Biển Đức nói tới là kinh nghiệm về sự chết và phục sinh, về nỗi bất lực và ân sủng. Ai đã có được kinh nghiệm này sẽ biết mình mù tối, trong khi những người pharisêu thì cứ tưởng mình sáng mắt. Nhưng người ấy cũng biết rằng Thiên Chúa là vị thuyền trưởng đích thực, ngài sẽ đưa con tầu của họ cập bến an toàn.

Chương 65

VỀ VIỆN PHÓ CỦA ĐAN VIỆN

Ngày 22.4 – 22.8 – 22.12    

1 Trong các đan viện thường nảy sinh những gương xấu trầm trọng do việc đặt viện phó. 2 Quả thế, có những kẻ bị thần dữ kiêu căng xúi xiểm tự coi mình là viện phụ thứ hai, nên tranh quyền đoạt vị gây gương xấu và gieo bất hoà trong cộng đoàn; 3 nhất là những nơi viện phó được đặt lên bởi chính vị tư tế hay bởi các viện phụ đã phong chức cho viện phụ nơi ấy. 4 Ai cũng dễ thấy việc làm như thế là phi lý chừng nào, bởi lẽ ngay từ đầu, khi vừa được đặt lên, viện phó đã có lý do để kiêu căng,5 nghĩ mình đã thoát quyền viện phụ, 6 vì lẽ mình cũng được đặt lên bởi chính các vị đã phong chức cho viện phụ. 7 Từ đó nảy sinh những chuyện ghen tương cãi vã, nói hành tranh chấp, bất hoà rối loạn. 8 Một khi viện phụ và viện phó đã có những tâm tình xung khắc nhau và mối bất hoà cứ kéo dài như thế, linh hồn các ngài tránh sao được những hiểm nguy. 9 Và kẻ bề dưới hùa theo phe này phe nọ, tất cũng lâm vào cảnh diệt vong. 10 Hậu quả của hiểm hoạ này đổ lên đầu những ai đã gây nên tình trạng hỗn loạn như thế.

Chú giải:

A – Ngày 22.4

Điều thánh Biển Đức sợ hơn cả đó là sự chia rẽ, óc bè phái trong cộng đoàn . “Tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về Kêpha, còn tôi, tôi thuộc về Chúa Kitô! Vậy thì Chúa Kitô bị phân rẽ sao?” Lời thánh Phaolô nói xưa kia ngày nay vẫn còn là một thực tại. Ta phải ngạc nhiên khi thấy một số người luôn có nhu cầu muốn gây chia rẽ, muốn phá hoại.

Điều đó đặc biệt đúng trong Giáo Hội chúng ta. Nhưng nhu cầu ấy bởi đâu mà đến? Thánh Biển Đức đưa ra một phân tích rất tinh tế trong chương 65 này, khi nói về viện phó trong đan viện. Ngài phân tích nguyên nhân, động cơ, phương pháp và hậu quả của nhu cầu gây chia rẽ.

Hậu quả thì rất hiển nhiên: chia bè chia phái (c.9), ghen tương, phản kháng, nói xấu, ganh tị, bất hòa và lộn xộn (c.7). Phương pháp thì rất tầm thường: cho là mình có quyền nọ quyền kia mà thực sự mình chẳng có (c.2), tránh né quyền bính viện phụ (c.5).

Còn nguyên nhân thì khó phân biệt hơn ta tưởng nhiều. Từ đâu mà nảy sinh “óc kiêu căng”, như thánh Biển Đức nói ở câu 2? Cái gì đã làm cho óc kiêu căng nảy sinh và lớn lên khiến ta nói: “Tôi, tôi cũng như anh mà!” Điều ấy làm ta nhớ đến đoạn sách Sáng Thế thuật lại rằng khi muốn thuyết phục ông Ađam và bà Evà, con rắn quả quyết: “Ông bà sẽ nên như các vị thần” (St 3,5).

B – Ngày 22.8

Thoạt tiên, dường như chương này chẳng liên quan gì đến ta nữa, vì ngày nay trong các đan viện chúng ta viện phó là do viện phụ đặt. Nhưng ai có thể quả quyết rằng nhờ vậy mà tránh được những xáo trộn, những rạn nứt hay xung khắc về quyền bính? Trong các tập thể con người, quyền bính đến từ nhiều nguồn khác nhau: -quyền do được đặt định, quyền do phẩm trật; -quyền có được do khả năng cá nhân trong lãnh vực nào đó (âm nhạc, nghệ thuật, kỹ thuật, tài chính…); -quyền đến từ tương quan bạn bè, tình cảm; -quyền dựa trên thói quen: “Tôi vẫn làm vậy, điều đó liên hệ đến tôi”…

Thánh Biển Đức không loại bỏ những thứ quyền đó trong cộng đoàn: -Ngài nhìn nhận khả năng của những anh em thạo nghề; -ngài dùng thiện cảm của những anh em từng trải để thu phục những người cố chấp; -ngài không cạo rỉ sét thói hư tật xấu quá mạnh tay kẻo làm vỡ bình. Nhưng ngài không muốn người ta vịn cớ đó để tránh né quyền viện phụ. Tại sao thế?

Hẳn là điều đó có thể giúp viện phụ thích thú hơn khi giải thích chương này. Nhưng thánh Biển Đức không quên nhắc viện phụ đừng vì thế mà dùng quyền cách độc đoán với anh em. Vậy đâu là lý do thực sự?

Chắc hẳn vì thánh Biển Đức thấy mối nguy rình rập mọi đan sĩ, dù viện phụ hay anh em, đó là dành cho mình những lãnh vực riêng chỉ liên quan đến một mình mình. Khi làm thế, khi vạch một ranh giới vô hình trong lòng mình, đan sĩ dựng lại cái mà thánh Phaolô gọi là bức tường ngăn cách và hận thù phân rẽ làm cản trở sự bình an đích thực.

Khi theo Chúa Giêsu, sẽ có lúc ta thấy mình bị tước đoạt hết những gì mình tưởng là đã nắm chắc, và khám phá được sự tự do vô tận. Bám víu lấy những cái đó là ngăn cản mình đi vào đường tự do, đường thống nhất nội tâm mà chỉ duy mình Thiên Chúa có thể khai mở trong lòng ta.

C – Ngày 22.12

Giữa thế giới mình đang sống, mỗi người chúng ta đều cảm thấy rằng phải thành công trong cuộc đời là điều hiển nhiên. Và thành công này có được, một đàng là nhờ cảm tưởng mình được kêu gọi tới một định mệnh đặc biệt, một đàng là do nhu cầu muốn sống hết mình.

Cảm tưởng được kêu gọi tới một định mệnh đặc biệt và được kêu gọi sống với hết sức lực mình, nếu bị làm cho thất vọng, sẽ có nguy cơ nảy sinh tình cảm ghen tương và buồn chán. Ghen tương với ai hoặc những ai ta nghĩ là có thể sống được như vậy. Buồn chán nếu cuộc sống không cho ta cơ hội để sống theo khả năng của mình. Cuộc sống tầm thường sẽ làm ta thất vọng.

Chương 65 này hoàn toàn tương ứng với trường hợp trên đây. Câu hỏi ngấm ngầm là: ta có thể sống một đời thành công mà không cần phải là viện phụ chăng? Đàng sau câu hỏi này còn tiềm ẩn một câu hỏi khác nữa, vì trong đan viện chỉ có một viện phụ: liệu người khác có cản trở hạnh phúc của tôi không? Và cuộc sống hằng ngày đặt ra cho ta câu hỏi này gần như từng giây phút. Vì người khác thường gây thương tích cho ta.

Dẫu vậy, điều dần dần bộc lộ cho ta kinh nghiệm về đơi sống đan tu, đó là vết thương do người khác gây ra, cái giằm người khác cắm vào da thịt ta, như thánh Phaolô nói, thực ra là một ân sủng phi thường. Nếu người khác, dù là anh em hay viện phụ, không khoét một lỗ hổng trong đời tôi, tôi sẽ hao phí cuộc đời để chỉ lẩn quẩn chung quanh mình. Tôi không thể đến được với chính mình.

Vì để sinh ra cho chính mình, để trở nên như mình phải trở nên, tuyệt đối ta phải cần đến một tiếng gọi, một cái nhìn, cần đến một vết thương gây ra bởi một tình yêu. Chính khi không còn là tất cả nữa, ta mới thực sự bắt đầu là một ai đó. Như vậy, người khác luôn luôn là một ơn gọi, một lời tiên tri, một hồng ân dành cho ta. Và chính trong chỗ rạn nứt, trong vết thương thầm kín đó của con tim mà Thiên Chúa sẽ có thể thốt lên tiếng gọi của ngài. Thực ra, kẻ thù của tôi lại chính là bản thân tôi!

Ngày 23.4 – 23.8 – 23.12   

11 Vậy cha thiết tưởng, để duy trì sự bình an và bác ái, viện phụ phải được toàn quyền tổ chức đan viện theo ý mình; 12 và nếu có thể, hãy đặt các trưởng nhóm như chađã quy định trước đây, để theo chỉ thị của viện phụ họ điều hành mọiviệc hữu ích trong đan viện. 13 Khi công việc được ủy thác cho nhiều người, thì một người khỏi kiêu căng. 14Tuy nhiên, nếu hoàn cảnh đòi hỏi hoặc cộng đoàn thỉnh cầu cách khiêm tốn và hợp lý và viện phụ xét là nên, 15thì ngài hãy bàn hỏi với những anh em kính sợ Chúa, rồi chọn ai tùy ý mà đặt làm viện phó của mình.

16 Còn viện phó, hãy cung kính thi hành những gì viện phụ ủy thác, đừng làm gì nghịch ý hay trái lệnh ngài, 17vì càng được nâng cao hơn kẻ khác, càng phải giữ luật kỹ hơn. 18 Nếu viện phó tỏ ra xấu nết, hoặc kiêu căng tự phụ, hay khinh thường tu luật, hãy dùng lời cảnh cảo đến bốn lần, 19 nếu không tu sửa, hãy chiếu luật mà nghiêm phạt. 20 Nếu như thế vẫn không hối cải, hãy cách chức viện phó đi và đặt người khác xứng đáng lên thay. 21 Sau đó, nếu vẫn không chịu ở yên và cứ bất phục trong cộng đoàn, hãy loại ra khỏi đan viện. 22 Tuy nhiên, viện phụ hãy nhớ mình sẽ phải tường trình trước Thiên Chúa về mọi phán đoán của mình, nếu không ngài sẽ bị lửa phân bì và ghen tương nung nấu.

Chú giải:

A – Ngày 23.4

“Để duy trì bình an và bác ái”. Đó là lý do khiến thánh Biển Đức giao cho viện phụ toàn quyền xếp đặt mọi chuyện trong đan viện của ngài. Ta có thể coi câu nói ngắn ngủi này như một nhận xét đơn giản của lương tri, trong bối cảnh chính trị và xã hội, theo những tiêu chuẩn về tổ chức và hiệu năng. Nhưng phải chăng đó là điều thánh Biển Đức nhắm tới?

Bình an của Phúc Âm chẳng có liên quan gì với cách thức ngoại giao mềm mỏng để tránh xung đột, hay với thứ bình an có được khi mỗi người cố thủ ở vị trí của mình. Bình an của Phúc Âm khác hẳn với thứ bình an do bởi không có chiến tranh, thứ bình an đặc thù của thế gian. Vì trong thế gian, bình an đến từ thế quân bình giữa các lực lượng, từ sự kiềm hãm nhau giữa các quyền lực đối kháng và có khuynh hướng loại trừ nhau.

Bình an theo thánh Biển Đức là điều hoàn toàn khác. Đó là bình an của Chúa Kitô. Đó là chính Chúa Kitô, vì, như thánh Phaolô nói, “chính ngài là bình an của ta”.

Chúa Kitô ở trung tâm sự bình an của các cộng đoàn chúng ta, và chỉ có một cách cổ võ sự bình an là đặt cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô vào giữa mọi tranh chấp, mọi ngờ vực, mọi hiểu lầm. Đó là bổn phận của viện phụ. Ngài phải không ngừng nhắc nhở rằng chính vì Chúa Kitô mà chúng ta đã gia nhập cộng đoàn.

B – Ngày 23.8

Trong cuộc tranh chấp từ bao đời giữa cơ chế và đặc sủng, dường như thánh Biển Đức muốn có một chọn lựa dứt khoát. Ít là ta có cảm tưởng như vậy khi mới đọc qua chương 65 này. Xem ra như ngài đứng về phe viện phụ để chống lại mọi hình thức tranh chấp trong cộng đoàn. Nhưng phải chăng đó là điều ngài muốn nhắm tới?

Thiết tưởng không thể giải thích chương 65 này theo kiểu chính trị như thế. Thực vậy, với thánh Biển Đức, nhiệm vụ của viện phụ cũng có một chiều kích đặc sủng, như ngài nói trong các chương 2 và 64. Điều thánh Biển Đức nhắm tới, đó là nhận thức thế nào là một đặc sủng trong cộng đoàn đan tu. Ngài đặt ra những nguyên tắc để phân định tính xác thực của mọi đặc sủng.

Đặc sủng là hồng ân của Thánh Thần giúp ta phục vụ vì bác ái. Như vậy, đặc sủng không hoạt động dưới phương thức quyền lực, và trong bối cảnh tranh chấp. Đặc sủng không chiếm hữu gì làm của riêng mình, cũng không tìm cách thiết lập một nhóm đồ đệ thân tín. Điều thánh Biển Đức muốn làm là phân biệt đặc sủng thiêng liêng với “đặc sủng” (khả năng, năng khiếu) thuần túy nhân loại.

Đặc sủng thiêng liêng không giống với sức lôi cuốn của một số người đối với những người khác. Nó không được dùng để tạo lập ra một nhóm tín đồ, hay một liên hiệp những kẻ bất mãn. Trái lại, đặc sủng nhằm mục đích phục vụ đức ái, phục vụ tình yêu khiêm tốn là nền tảng cấu tạo nên cộng đoàn đan tu.

C – Ngày 23.12

“ Để duy trì sự bình an” (c.11). Ta không sợ lầm mà quả quyết rằng câu 11 của chương 65, tức câu mở đầu đoạn luật hôm nay, tóm gọn một trong những nguyên tắc cơ bản của toàn thể tu luật. Điều thánh Biển Đức thiết lập, điều ngài ấn định đó là sự bình an và đức ái.

Và ta còn có thể quả quyết rằng nguyên tắc này, được áp dụng cho việc tổ chức đan viện, cắt đặt viện phó, cũng có thể áp dụng cho bất cứ việc gì ta làm với tính cách tập thể hay cá nhân. Điều ấy có thể diễn đạt như sau: phải chăng lời nói, cử chỉ, thái độ, thói quen này giúp ta duy trì được sự bình an và tăng cường bác ái?

Nhưng bình an là gì? Bác ái là gì? Ý nghĩa đích thực của bình an không hẳn là điều dễ thấy như ta tưởng. Quả thực, ta thường lẫn lộn bình an với sự kiện không có tranh chấp. Như thể không biết đến nhau, tránh gặp nhau trong hành lang, không nói gì với nhau hay không nhìn nhau là dấu có bình an thực sự rồi. Cứ coi từ nguyên của hai tiếng bình an ta sẽ hiểu rõ hơn thánh Biển Đức muốn nói gì.

Tiếng “pax” (bình an) thuộc gốc âu-ấn “pak” có nghĩa là “cố định bằng một xác tín” hay cũng còn có dạng “pag” chỉ “một hành động thể lý”. Như vậy, bình an không phải là thiếu, vắng, nhưng là một hoạt động, một xác tín. Bình an đòi phải thực sự dấn thân, phải hoạt động bằng tinh thần và con tim, phải sáng tạo. Ý tưởng này ta gặp thấy trong Tân Ước, đặc biệt là ở Ep 2,14: “Chính Người là bình an của ta: Người đã đến liên kết đôi bên nên một”. Bình an không phải là một tình trạng người ta cố giữ cho yên bao nhiêu có thể. Nhưng đúng hơn, bình an là dấn thân, là khát vọng yêu mến, bất chấp mọi sự, trong khi vượt qua bức tường chia rẽ và hận thù.

Chương 66

NGƯỜI GIỮ CỔNG ĐAN VIỆN

Ngày 24.4 – 24.8 – 24.12    

1 Ở cổng đan viện nên đặt một người đứng tuổi, khôn ngoan, biết ứng đáp và trưởng thành để khỏi đi lang thang. 2 Người giữ cổng phải có phòng gần cổng để bất luận khách đến lúc nào cũng sẵn có người đón tiếp . 3 Vừa nghe có ai gõ cửa hay kẻ nghèo kêu xin, người giữ cổng hãy thưa ngay “Tạ ơn Chúa”, hoặc “Chúc tụng Chúa”. 4 Rồi hết sức dịu dàng lấy lòng kính sợ Chúa mà mau mắn trả lời với tình bác ái nhiệt thành. 5 Nếu cần người giúp thì cho một anh em nhỏ tuổi hơn. 6 Còn đan viện, nếu có thể, phải thiết lập thế nào để mọi thứ cần thiết như nước, cối xay, vườn tược hay các thứ công nghệ, đều được làm trong nội vi đan viện, 7 để đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, vì điều đó không hề thích hợp cho linh hồn họ. 8 Bản luật này, cha muốn năng đọc trong cộng đoàn để không anh em nào chữa mình là không biết.

Chú giải:

A – Ngày 24.4

Cổng đan viện là điểm tiếp xúc với thế gian. Đó là nơi gặp gỡ giữa hai thế giới: thế giới bên trong và thế gìới bên ngoài. Chương nói về người giữ cổng đan viện cho thấy những đặc tính căn bản trong mối tương quan nội ngoại này.

Đặc tính thứ nhất: tương quan ấy không phải tương quan trực tiếp. Vì, như thánh Biển Đức đã dự trù, những tiếp xúc từ bên ngoài vào hay từ bên trong ra đều qua trung gian người giữ cổng.

Đặc tính thứ hai, tương quan với thế giới bên ngoài là một tương quan tích cực. Hai câu người giữ cổng thốt lên khi có khách tới: “Tạ ơn Chúa” hay “Chúc tụng Chúa” cho thấy điều đó. Đối với thánh Biển Đức, khách đến là một phúc lành cho đan viện.  

Chỉ có một điểm tiêu cực được thánh Biển Đức lưu ý, đó là vấn đề cá nhân đan sĩ: “Để các đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, điều không hề thích hợp cho linh hồn họ”. Không phải vì thế giới bên ngoài xấu, nhưng vì khuynh hướng muốn để mình bị phân tán, mất tĩnh niệm khi lo tới những chuyện ở bên ngoài.

Vai trò của người giữ cổng không phải là bảo vệ ta khỏi thế giới bên ngoài vì nó xấu. Không phải vậy, nhưng đúng hơn là bảo vệ ta khỏi chính mình, và có lẽ đôi khi bảo vệ khách khỏi sự vô ý vô tứ của một số đan sĩ. Ai biết được?

B – Ngày 24.8

“Hết sức dịu dàng thanh thản do lòng kính sợ Chúa”. Đó là nét nổi bật trong thái độ của người giữ cổng, như thánh Biển Đức mong muốn. Câu này cũng cho thấy ý nghĩa sâu xa của lòng kính sợ Chúa đối với thánh nhân. Ngài mới nói tới lòng kính sợ này ở chương 64 về việc bầu viện phụ, ngài coi lòng kính sợ Chúa như điều kiện thiết yếu để cuộc bầu cử có được kết quả tốt.

Lòng kính sợ Chúa làm cho đan sĩ biết cư xử dịu dàng, giúp họ xử lý cách thanh thản những khó khăn, những bất ngờ trong cuộc sống. Ta có thể định nghĩa lòng kính sợ này là thái độ nội tâm khiến ta thi hành mọi việc đúng lúc đúng chỗ, giúp ta giải tỏa mọi ảo tưởng khỏi lòng mình. Và như thế, lòng kính sợ Chúa làm cho ta được bình an.

Suốt cuốn tu luật, thánh Biển Đức rất thường nhắc đến lòng kính sợ Chúa. Diễn ngữ này nói lên một yếu tố nòng cốt của việc hoán cải đan tu. Cuộc đời ta phải trải qua nhiều nỗi sợ: sợ thiếu thốn, sợ không được yêu thương, sợ không được biết đến, sợ bị bỏ quên, sợ bị kết án, sợ bị loại trừ, sợ chết. Với thánh Biển Đức, tất cả những nỗi sợ ấy đều là sai lầm, vì ta chỉ phải kính sợ một mình Thiên Chúa mà thôi.

Nếu những nỗi sợ kia hủy hoại ta, thì trái lại, lòng kính sợ Chúa củng cố và giải thoát ta. Khi ý thức Thiên Chúa hiện diện trước mặt mình, nhìn xem mình và yêu thương mình, ta sẽ được cứu thoát. Khi ngăn cản ta rơi vào sự dữ và dối trá, lòng kính sợ Chúa dần dần tạo nên trong ta một niềm tin tưởng vững mạnh vào cuộc sống, vì Thiên Chúa lớn hơn tất cả những gì có thể xẩy đến cho ta. Và khi được Chúa đoái nhìn, ta cũng sẽ lớn hơn lên.

C – Ngày 24.12

Thoạt tiên ta có cảm tưởng là trong chương 66 này thánh Biển Đức bàn đến hai chủ đề chẳng liên hệ gì với nhau. Thực vậy, ngài nói về người giữ cổng đan viện, rồi từ câu 6 ngài lại đề cập tới nội vi. Nhưng phải chăng là ngẫu nhiên? Thực ra, khi làm thế, thánh Biển Đức phác họa một phong cảnh. Một phong cảnh ngoại giới, nhưng như ta sẽ thấy, đó cũng là một phong cảnh đối với đời sống nội tâm.

Cổng đan viện là làn ranh ngăn cách giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài và thế giới bên trong. Người giữ cổng đan viện chính là người coi giữ làn ranh đó. Thuộc thế giới bên ngoài là những người đến gõ cổng đan viện, những người nghèo mà ta phải đón tiếp với sự khôn ngoan và chín chắn của tuổi cao niên, với lòng nhân ái và sự bình thản ta có được nhờ biết kính sợ Chúa. Nên lưu ý ngay rằng, với thánh Biển Đức, thế giới bên ngoài không phải là một thế giới xấu xa khiến ta phải đề phòng. Đón tiếp người đến gõ cổng, chính là đón tiếp Chúa Kitô.

Rồi có một thế giới bên trong. Thánh Biển Đức muốn đan viện được tổ chức cách nào để đan sĩ không bị bó buộc phải ra ngoài. Ngài bảo: nước, cối xay, vườn tược, cơ sở làm việc v.v. phải ở trong nội vi. Nhưng tại sao lại phải thế? Phải chăng sau khi cho rằng thế giới bên ngoài chẳng có chi là xấu cả ngài lại đổi ý? Ngài tự mâu thuẫn chăng?

Thiết tưởng ở câu 7 ta có thể thấy thánh Biển Đức tỏ ra khôn ngoan đặc biệt khi ngài quả quyết: “để đan sĩ khỏi bó buộc phải ra ngoài, vì điều đó không hề thích hợp cho linh hồn họ”. Với ngài, cái xấu không phải là thế gian, nhưng là khuynh hướng thích đi ra ngoài.

Nội vi đan viện trước hết chính là ý thức sự nghèo khó, sự mỏng dòn, những giới hạn của ta, tất cả đều cản trở ta gặp được những nẻo đường ta phải đi, và thúc đẩy ta tìm kiếm ở bên ngoài những tương quan, những tình bạn v.v, những điều mà ta đã từ chối tìm kiếm ở trong đan viện. Và hẳn là không vô ích nếu nhắc cho những anh em giữ cổng rằng khi chu toàn nhiệm vụ, họ giúp ta quay về với điều cần duy nhất, điều đã khiến ta tìm đến với đan viện. Trách nhiệm của những anh em ấy thật lớn lao, ta phải cám ơn họ, nhưng cũng khích lệ họ quan tâm giữ cho đan viện được bình an bằng cách thi hành nhiệm vụ thật nghiêm chỉnh.

Chương 67

NHỮNG ANH EM  ĐI ĐƯỜNG

Ngày 25.4 – 25.8 – 25.12         

1 Những anh em cần đi đường, phải xin toàn thể anh em và viện phụ cầu nguyện cho; 2 và trong lời nguyện cuối cùng của giờ Thần Vụ, bao giờ cũng phải nhắc đến mọi người vắng mặt. 3 Còn những anh em đi đường, ngay hôm trở về, sau giờ Thần Vụ, hãy phục xuống đất ở nhà nguyện 4 xin mọi người cầu nguyện cho, vì những sai lỗi có thể mắc phải khi đi đường như: mắt thấy, tai nghe những điều xấu xa, hoặc miệng nói những lời phù phiếm.

5 Đừng ai tự tiện thuật lại cho người khác bất cứ điều gì mắt thấy, tai nghe ở ngoài đan viện, vì đó là điều rất tai hại. 6 Ai dám làm thế sẽ bị phạt theo chiếu luật. 7 Ai tự tiện ra ngoài nội vi đan viện, bất luận đi đâu hay làm gì, dù chẳng quan trọng bao nhiêu, nếu không có phép của viện phụ thì cũng bị phạt như thế.

Chú giải:

A – Ngày 25.4

Trước và sau cũng như trong khi đi đường, đan sĩ đều được anh em và viện phụ cầu nguyện cho. Mối giây hữu cơ liên kết đan sĩ với cộng đoàn được biểu lộ qua các nghi thức: khi đi khi về, và cả trong lúc đi đường bằng mối hiệp nhất với cộng đoàn qua việc cử hành các giờ kinh. Không phải lúc đi đường ta tạm nghỉ làm đan sĩ. Nhưng lúc đó ta vẫn là đan sĩ, vẫn là thành viên của cộng đoàn.

Việc cầu nguyện cho anh em đi đường cũng như lúc họ trở về là điều quan trọng cả cho anh em ra đi cả cho anh em ở nhà. Ai tránh né việc này là chứng tỏ người ấy coi thường anh em, coi anh em chẳng quan trọng gì trong cuộc đời mình. Mọi tránh né như thế đều hàm ẩn một vấn đề.

Thời nay ta đi ra ngoài thường xuyên hơn, với những cuộc hành trình dài hơn, nhưng không hẳn là nhiều hơn thời các cha ông ta thủa ban đầu. Ngày nay ta khó mà tưởng tượng được số thời gian các ngài phải dành ra cho việc đi bộ hay đi ngựa để dự các kỳ đại hội Dòng, để kinh lý hay thực hiện những nhiệm vụ khác. Và những phương tiện đi chuyển thời ấy lại chẳng được như hiện nay.

Các ngài đã làm thế nào? Tôi thường tự hỏi như thế. Hẳn là trên những chuyến tầu đi xa, các ngài có thời gian viết sách hay tĩnh tâm, nhưng đâu phải mọi sự đều dễ dàng. Tôi nghĩ rằng điều nâng đỡ các ngài nhất chính là lời cầu nguyện của anh em trong cộng đoàn, một lời cầu nguyện có sức giúp các ngài vượt qua được những thử thách, những cuộc chiến cam go.

B – Ngày 25.8

Khi có dịp ra ngoài đan viện, tất cả chúng ta đều ngạc nhiên về một hiện tượng lạ, đó là ta nhạy cảm hơn nhiều với những gì ta thấy và nghe được. Ta có ấn tượng mạnh hơn và lâu bền hơn về những chuyện đó, như thể đời sống đan tu đã làm cho cảm tính của ta nhạy bén hơn. Việc kiêng nhìn, kiêng nghe khiến ta dễ cảm nhận hơn cái đẹp cũng như cái xấu ta có thể gặp.

Thay vì ru ngủ hay làm tê liệt cảm tính, khả năng rung động và thán phục của ta, đời đan tu gần như phát huy nơi ta một loại giác quan thứ sáu, hay đúng hơn làm cho các giác quan của ta tăng thêm độ nhạy bén. Nói một cách có vẻ hơi mâu thuẫn thì dường như việc xa cách thế gian làm cho ta nên người hơn.

Chỉ có vẻ mâu thuẫn thôi, vì thực ra, kiêng nhìn, kiêng nghe dần dần giúp cho việc nghe việc nhìn có chất lượng cao hơn, đó là chuyện bình thường. Và đấy chính là mục đích của việc xa lánh thế gian. Khi thoát ra khỏi cơn lốc những công việc thế gian, ta không trốn tránh con người, nhưng muốn tìm kiếm chất lượng cao hơn cho cái nghe cái nhìn của ta.

Chính vì vậy thánh Biển Đức yêu cầu anh em “đừng thuật lại bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe ngoài đan viện” (c.5). Đây không phải là một lệnh cấm nhưng đúng ra là một cách bảo vệ. Như Thomas Merton viết khôi hài trong thư gửi các đan sĩ: “Gà không đẻ giữa chợ”. Sự tinh tuyền trong sáng nơi cái nhìn cái nghe của ta thật đáng với giá đó. Những ồn ào của thế gian có nguy cơ khiến ta sao lãng tìm kiếm điều cốt yếu cho đời mình.

C – Ngày 25.12

Cứ ngày 25 tháng 12 mỗi năm ta lại đọc chương 67 của tu luật nói về các anh em đi đường. Phải chăng là tình cờ hay do sự quan phòng của Chúa? Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mang dấu ấn đi đường! Thánh Giuse và Đức Maria đã phải khăn gói lên đường tới Belem để đăng ký hộ tịch theo lệnh hoàng đế Quiriniô. Các đạo sĩ đã đến từ phương xa theo ánh sao chỉ dẫn. Các mục đồng cũng tìm đến xem điều mới xẩy ra như thiên thần loan báo cho họ.

Lễ Giáng Sinh mời gọi ta lên đường chăng? Nếu vậy thì đáng tiếc quá cho những đan sĩ đã khấn bền đỗ! Nhưng phải biết rõ điều này, trong câu chuyện giáng sinh, chỉ duy có một người không nhúc nhích, đó là Hêrôđê, vì sợ mất ngai vàng, và ông đã khiến cho Thánh Gia phải trốn sang Ai Cập. Lại một cuộc lên đường nữa. Và ta cũng không quên ba đạo sĩ lên đường trở về. Trong bối cảnh rất xa với sự bền đỗ như thế, làm sao còn dám nói tới lời khấn bền đỗ mà thánh Biển Đức coi như thiết yếu cho cuộc hoán cải đan tu, ngược với các đan sĩ ái nhĩ lan, những người lấy lời mời gọi lên đường làm luật sống cho mình? 

Sự trái ngược đó chỉ là ở mặt ngoài. Nó chỉ ngăn cản tâm trí nông cạn, ít được giáo hóa, chưa hiểu đâu là điều thiết yếu của ơn gọi đan tu. Làm đan sĩ chính là dấn thân vào một hành trình, một cuộc xuất hành, không ngừng cất bước, để đi theo Chúa Kitô. Nhưng làm đan sĩ trước hết là hiểu rằng dù có đi khắp thế gian cũng chẳng lợi ích gì, bởi lẽ cuộc hành trình của đan sĩ phải là cuộc hành trình nơi con tim.

Quả thực, cứ đi hết nơi này đến nơi khác nào có ích lợi chi, giống như những người du tu bị ý riêng lôi kéo, không thể nào hoán cải, vì ngay lúc có cơ hội thay đổi là họ lại ra đi. Bởi lẽ cuộc hành trình ta được mời thực hiện không phải là cuộc hành trình đưa ta tới tận cùng trái đất, nhưng tới tận cùng con tim ta. Sa mạc ta phải đi, biển cả ta phải vượt không ở ngoài, nhưng ở trong ta. 

Khi lẫn lộn lời mời gọi lên đường Chúa gửi đến ta với chứng ngứa ngáy muốn thay đổi, ta có nguy cơ bỏ qua điều cốt yếu, để suốt đời chỉ chạy theo ảo tưởng phù du, và như thế là uổng công phí sức. Ích gì khi rảo khắp thế gian nếu đã không khởi sự dấn thân vào cuộc phiêu lưu đích thực trong thâm sâu bản thân mình. Chính vì thế, thiết tưởng thánh Biển Đức không ưa thích gì chuyện đi ra ngoài. Ngài không muốn ta lấy hình bóng làm thực tại, lấy cái vẻ bên ngoài làm ơn gọi đích thực của ta.

Chương 68

ANH EM NHẬN LỆNH TRUYỀN

VƯỢT QÚA KHẢ NĂNG

Ngày 26.4 – 26.8 – 26.12   

1 Nếu anh em nào được giao những công việc nặng nhọc hoặc không sao kham nổi, hãy cứ tuân lệnh với tất cả sự hiền từ và vâng phục. 2 Nếu thấy công việc quá nặng vượt hẳn sức mình, hãy nhẫn nại và tìmcơ hội thuận tiện trình bày với bề trên những lý do khiến mình không làm nổi, 3 chứ đừng kiêu căng chống lại hay phản đối. 4 Nếu sau khi đã trình bày, mà bề trên vẫn giữ nguyên lệnh cũ, bề dưới hãy biết như thế là ích lợi cho mình 5 và lấy lòng yêu mến, cậy trông ơn Chúa giúp mà vâng phục.

Chú giải:

A – Ngày 26.4

Những lời thánh Biển Đức dùng trong chương này, để nói về thái độ của anh em được giao một công việc họ không thể thực hiện, là những lời rất hay: – Câu 1: họ đón nhận lệnh truyền với tất cả sự bình thản và vâng phục. – Câu 2: vào lúc thích hợp, họ nhẫn nại trình bày những lý do khiến mình không thể thực hiện lệnh truyền. – Câu 3: không kiêu căng, không bướng bỉnh, không tranh cãi. – Câu 5: được đức ái tác động và tin tưởng vào ơn Chúa giúp.

Ai trong ta lại không có ngày nào đó thấy mình ở trong một tình huống vượt quá khả năng, quá sức lực mình. Cái khó thường không liên quan gì tới phương diện khách quan của lệnh truyền. Phần lớn trường hợp, vấn đề bị vùi sâu trong ta đã nổi dậy nhân một lệnh truyền, đôi khi ngay cả bề trên cũng không hay biết. Cái bất lực là ở nơi ta: ta vấp phải những giới hạn tâm lý và thiêng liêng.

Phản xạ lúc ấy là từ chối. Từ chối cách thụ động hay bằng tranh cãi, điều có thể dẫn tới bướng bỉnh và kiêu căng. Khi đó sẽ có nguy cơ khép kín để tự biện hộ và tự kết án mình là không hiểu nổi điều gì thực sự xẩy ra nơi mình nữa. Vì thực ra “cái không thể được” không cho thấy sự không hay biết của bề trên, nhưng cho thấy vết thương của ta.

Khi ấy nhiều người muốn trốn chạy. Có tới cả ngàn cách trốn. Vì ta có thể trốn mà chẳng cần ra khỏi đan viện. Một số người làm hết cách để không bao giờ bị nhờ chuyện gì cả. Họ trở nên khó chịu và tỏ ra không đồng ý chấp nhận điều được yêu cầu. Những người khác thì làm như chấp nhận, rồi cố xoay xở để lệnh truyền được rút lại. Dù bằng sức mạnh, bằng sự khéo léo hay trốn chạy, họ đều tìm cách thoát khỏi cơn thử thách, khỏi phải vâng lời. Nhưng thật là uổng, họ không biết họ đã bị thiệt hại như thế nào. Họ đã bỏ mất cơ hội để có thể cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên Chúa, đấng cứu trợ ta là những kẻ yếu hèn.

B – Ngày 26.8

Người ta thường coi chương 68 này như một chương về sự vâng phục. Bản văn như muốn chứng thực điều đó khi kết thúc bằng một câu rất rõ ràng: “Bề dưới hãy…lấy lòng yêu mến, cậy trông ơn Chúa giúp mà vâng lời”. Tuy nhiên, nếu chỉ coi chương này như một trường hợp đặc biệt áp dụng chương 5 về đức vâng phục, ta sẽ có thể bỏ mất một chiều kích cốt yếu mà thánh Biển Đức muốn giúp ta nhận ra.

Quả thực, chương này có cái gì thật kỳ lạ, gây ngạc nhiên bởi văn phong rất thanh thản, dịu dàng, nhẫn nại. Khi đọc lên, ta cảm thấy có điều gì thiết yếu, điều gì cốt tử cho người vâng phục và cho người ra lệnh. Điều gì đó ở mức độ rất sâu xa, như thể cho ta thấy cái được thua không thể nghi ngờ của đức vâng phục đan tu.

Điều thánh Biển Đức mời gọi ta thực hiện là một điều thiết yếu trong cuộc sống của mọi con người, đó là tin tưởng, là điều duy nhất có thể giúp ta làm nổi cái không thể làm và nhờ thế mà đón nhận được ơn sủng. Nhưng tin tưởng là gì, ở mức độ nào? Những giới hạn của ta có thể khiến cho lòng tin tưởng bị lung lay hoặc ngăn cản ta tin tưởng không?

Thực ra, chỉ người nào ý thức những yếu đuối của mình mới có thể tin tưởng. Tin tưởng là trắc nghiệm của lòng khiêm tốn đích thực, bắt nguồn từ sự thật. Thánh Phaolô xếp tin tưởng vào số những dấu hiệu cho thấy ta có Thánh Thần ngự nơi mình: tin tưởng tất cả.

Vì đó là cái mâu thuẫn của đời sống thiêng liêng: thay vì khiến ta bị tê liệt, ý thức về sự yếu đuối của mình làm cho ta được tự do. Còn nếu không thể tin tưởng thì đó là dấu cho thấy ta chưa ý thức được những giới hạn của mình, chưa biết yêu thích chúng, tóm lại đó là dấu cho thấy ta coi mình lớn hơn thực chất của mình, và một cách vô thức ta trách cứ người khác không nhận ra cái lớn lao của ta. Vậy thì làm sao mà tin tưởng nơi họ được?

C – Ngày 26.12

Không thể định nghĩa thế nào là những điều không thể làm được. Làm được hay không thể làm được là tùy theo giới hạn của mỗi người, về thể lý, tâm lý hoặc tinh thần. Làm được hay không thể làm được cũng tùy thuộc tuổi tác mỗi cá nhân. Thực vậy, có những cái khi còn trẻ ta không làm được, nhưng khi lớn lên ta lại làm được mà chẳng hay biết. Nhưng trái lại cũng có những việc mà lúc ban đầu sốt sắng ta thực hiện quá dễ dàng, thế mà một thời gian sau đã trở nên hầu như không sao kham nổi.

Như vậy, điều không thể làm được mang tính cách bất định, không thể thấy trước. Chẳng ai chờ đợi, chẳng ai sẵn sàng với nó. Đấy là một thử thách xẩy đến bất ngờ. Nhưng thử thách không chỉ có ý nghĩa tiêu cực như ta thường hiểu. Trong tiếng thử thách có ý tưởng mặc khải, theo nghĩa thử thách giúp ta nhìn ra được sự thật về mình.

Vì chính khi giáp mặt với những giới hạn của mình, khi vâng lời là điều quá khó khăn, ta mới có thể thẩm định được sự biến đổi mà ơn thánh thực hiện nơi ta, điều ta rất thường không hay biết. Quả thực, trong những hoàn cảnh như thế ta mới có thể nhận ra hiệu quả của những giờ cầu nguyện và đọc Lời Chúa, của những bước đi nhỏ đôi khi ta thực hiện trong đêm.

Thánh Kinh ưa thích sử dụng hình ảnh vàng được nấu trong lò, để sạch hết lớp rỉ bên ngoài và trở nên bóng láng. Mỗi thử thách trong đời đều hiển lộ một điều gì đó nơi ta. Thử thách hé mở kho tàng bí mật của tâm hồn. Thử thách làm im bặt những lời viển vông và xóa tan những dáng vẻ giả tạo. Thử thách cho ta nhìn thấy ánh sao bừng sáng lên trong đêm tối.

Chương 69

TRONG ĐAN VIỆN

ĐỪNG AI BÊNH VỰC NGƯỜI KHÁC

Ngày 27.4 – 27.8 – 27.12   

1 Trong đan viện phải thận trọng đề phòng, đừng ai bênh vực hay bảo hộ cho một đan sĩ khác, 2 bất cứ trong trường hợp nào, dù có quan hệ thân thích với nhau thế nào cũng vậy. 3 Đan sĩ không được tự tiện làm thế bất luận cách nào, vì đó là dịp nặng nề sinh nhiều gương xấu. 4 Ai vi phạm điều này sẽ bị nghiêm phạt,

Chú giải:

A – Ngày 27.4

Một trong những cái nguy hằng rình rập tất cả chúng ta, đó là sự thiên vị. Nhất là khi sự thiên vị biến thành phe nhóm, và khi phe nhóm có nguy cơ phân rẽ cộng đoàn. Bởi vậy, thánh Biển Đức rất nghiêm khắc với thói thiên vị và ngài kiên quyết dẹp bỏ. Dầu thế, ta cũng nên suy nghĩ một chút về thái độ này. Tất cả chúng ta đều có những thiện cảm và những ác cảm. Ta có khuynh hướng bỏ qua dễ dàng một điều gì đó khi nó liên quan đến anh em này hơn là đến anh em khác. Tại sao vậy?

Đó là khi sống gần một anh em, ta mới hiểu được điều gì đụng chạm tới anh ta, điều gì làm anh ta tổn thương, điều gì anh ta cần. Khi ấy ta hiểu hơn điều gì thúc đẩy anh ta, điều anh ta dự tính, những khó khăn anh ta gặp phải. Nhưng, rủi thay, ta lại không có được sự đồng cảm, sự am hiểu như thế đối với tất cả mọi người.

Khi đề phòng ta khỏi thiên vị, thánh Biển Đức không hề muốn xóa bỏ cái phần tình cảm và thiện cảm vẫn có trong mọi cuộc sống thực sự nhân bản, nhưng ngài muốn ta nhận ra những tác hại to lớn mà tính thiên vị có thể gây ra cho một cộng đoàn, khi thiên vị trở thành tiêu chuẩn để đánh giá thực tại.

Dù muốn dù không, tình cảm của ta cũng đã bị tổn thương. Ta không còn biết yêu thương thực sự nữa. Tình cảm ta cần được chữa lành, cần được tái tạo, giống như mọi quan năng khác. Ở đây thánh Biển Đức đề phòng ta cho khỏi ngây thơ nghĩ rằng tình cảm ta vẫn trong sáng tinh tuyền như không hề bị ảnh hưởng bởi tội lỗi. Vấn đề không phải là không tin vào tình cảm, nhưng là phải sáng suốt. Không hẳn cái gì ta yêu thích cũng đều là yêu cách chân chính cả.

B – Ngày 27.8

Ta có thể ngạc nhiên về giọng nói nghiêm khắc của thánh Biển Đức trong chương này. Thật ra, trước sự bất công và tàn ác, con người có thể phẫn nộ cách lành mạnh. Trong một số trường hợp ta có thể cảm thấy như mình phản bội điều cao quí hơn, chân thực hơn nơi mình, nếu không ra tay bảo vệ người nghèo hèn thấp bé hơn. Có gì đáng trách khi bênh vực người khác, nhất là người yếu đuối và vô tội?

Thánh Kinh lại không đề cao việc bênh vực người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ nghèo bị áp bức và người công chính bị bách hại đó sao? Chính Chúa Giêsu đã chẳng là người đầu tiên chống lại những kẻ chất gánh nặng lên vai anh em mình và kết án nghiêm ngặt kẻ phạm tội đó sao? Kitô giáo đòi hỏi ta chống lại bất công, áp bức, dối trá, và điều đó đôi khi phải cần đến nhiều can đảm và thực sự hy hiến bản thân mình. Phải hy vọng rằng, thay vì làm suy yếu đi, đời đan tu giúp phát triển và làm cho khả năng phẫn nộ ấy nên nhạy bén hơn.

Nhưng phải chăng đó là điều thánh Biển Đức nhắm tới, khi mà ngài chỉ mong chữa trị bản tính nhân loại bị tổn thương nơi ta, trả lại cho nó phẩm giá và nét huy hoàng nguyên thủy?

Thực ra, thánh Biển Đức biết rằng khi bênh vực một anh em thì thường là chỉ vì lợi ích riêng, quan điểm riêng cũng như mối liên hệ của ta với người ấy. Tìm cách bảo vệ người anh em, nhưng đúng ra là ta tự bảo vệ mình. Phải can đảm lắm mới dám yêu thương thật sự. Nhưng ta chỉ can đảm được nhờ biết sáng suốt nhận ra lý do thúc đẩy tự trong thâm tâm. Và chỉ sáng suốt khi ta có khả năng lui bước trước sự phẫn nộ của mình.

C – Ngày 27.12

Cộng đoàn đan viện không xây dựng trên những mối liên hệ họ hàng, bạn hữu, trên tương quan xã hội hay sắc tộc. Cộng đoàn này xây dựng trên việc thuộc về Chúa Kitô, đấng vượt trên mọi biên giới của con người và giải thoát ta khỏi mọi thứ ích kỷ phe phái.

Chính vì quên mất dữ kiện này mà đôi khi nảy sinh những xáo trộn nặng nề, như thánh Biển Đức nói ở câu 3. Quả thật, khi ta từ chối chấp nhận tính cách mỏng dòn của mình, thì một trong những hình thức khép kín là ẩn mình vào một nhóm bạn hữu, là tạo nên một phe phái ở giữa cộng đoàn.

Không nên ngạc nhiên hay bực bội vì chuyện đó. Xưa kia cộng đoàn Giêrusalem đã phải tuyển chọn các trợ tá chỉ vì đã nảy sinh các phe nhóm do bởi một vấn đề rất cụ thể là chuyện ăn uống. Để tránh cách hành xử rất phổ biến là ưu đãi những người thân cận, cộng đoàn đã chọn ra những anh em cương trực và công chính. 

Phải sáng suốt lắm mới ý thức được khi nào ta có nguy cơ đi vào con đường này, và phải rất khiêm tốn để chấp nhận lời người khác nhắc nhở mình. Muốn được vậy, ta phải yêu thương anh em cách trong sạch, như các linh phụ nói. Yêu thương như thế sẽ không lợi dụng người khác để thỏa mãn nhu cầu riêng hay thoa dịu nỗi khắc khoải nơi mình. Cassianô nhấn mạnh nhiều tới chuyện phải có con tim trong sạch, nếu không sự trong sạch nơi thân xác sẽ chỉ là ảo tưởng lừa dối ta và sẽ tiêu tan ngay khi có dịp.

Chương 70

ĐỪNG AI TỰ TIỆN ĐÁNH ĐẬP ANH EM

Ngày 28.4 – 28.8 – 28.12     

1 Trong đan viện phải tránh mọi dịp kiêu căng tự phụ, 2 nên cha ấn định rằng không ai được phép tuyệt thông hay đánh đập anh em, nếu không do viện phụ ủy quyền. 3 Những ai lỗi phạm điều này sẽ bị sửa phạt công khai cho người khác sợ. 4 Còn trẻ em dưới mười lăm tuổi, mọi người phải lo cho chúng giữ kỷ luật và trông coi chúng. 5 Nhưng phải hết sức chừng mực và hợp lý. 6 Ai tự tiện làm gì xúc phạm đến người lớn tuổi hơn, bất luận cách nào, ngoài lệnh viện phụ, hay nổi giận cách thiếu cẩn trọng với trẻ em, sẽ bị kỷ luật. 7 Vì có lời chép: “Điều con không muốn làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác”.

Chú giải:

A – Ngày 28.4

Ở chương trên, ta thấy thánh Biển Đức cấm đan sĩ bênh vực một đan sĩ khác. Trái lại, trong chương này ngài cấm đan sĩ đánh đập anh em mình. Hai điều có thể coi như đối nghịch nhau. Nhưng có đúng vậy không? Trong cả hai trường hợp, đan sĩ hành xử theo phán đoán riêng của mình như thể chỉ mình mới biết được điều gì xẩy ra. Đáng ngạc nhiên là rất thường cũng chính những đan sĩ ấy vừa bênh vực anh em này lại vừa đánh đập anh em khác, bằng lời nói hay bằng hành động. Trong cả hai trường hợp, thánh Biển Đức nhằm tới cùng một thái độ nội tâm, một thái độ mà ta nên tìm hiểu kỹ hơn, vì một lúc nào đó, mỗi người chúng ta đều có thể hoặc là hết sức bênh vực hoặc là chỉ trích quá đáng.

Trong cả hai trường hợp, đan sĩ nào hành xử như thế chứng tỏ là anh ta thiên vị, bởi lẽ anh ta tự đặt mình ở trung tâm vấn đề. Người anh em gặp khó khăn, hay người làm cho anh ta khó chịu, khơi dậy vết thương của anh ta. Quan trọng không phải là người anh em kia, nhưng là vấn đề của anh ta, là những cay đắng của anh ta, là cảm giác anh ta bị thất bại, không được hiểu.

Như vậy, đan sĩ nào bênh vực một anh em là tự đặt mình vào trung tâm cuộc tranh luận, bằng cách sử dụng sự đau khổ hay lầm lỗi của người anh em kia. Điều đó giúp ta hiểu được sự nghiêm khắc của thánh Biển Đức đối với đan sĩ ấy. Điều thánh nhân mong muốn là làm cho anh ta ý thức rằng anh ta không phải trung tâm thế giới, rằng vũ trụ không xoay quanh cái bản ngã bé nhỏ của anh ta, một bản ngã chất chứa những bực bội và khắc khoải.

Như thế, khi nhận ra chính Chúa Giêsu mới là trung tâm thế giới, trung tâm của vũ trụ này, thì sau cùng anh ta có thể được giải thoát khỏi sức ép của sợ hãi, của mặc cảm, và đạt tới tự do nội tâm.

B – Ngày 28.8

Cơn cám dỗ “tuyệt thông hay đánh đập” người khác (v.2) thật là nặng nề khi có ai làm ta bực mình hay khiến ta không thể chịu đựng nổi. Quả thực, khó mà chống lại được cảm giác bất lực muốn nhận chìm ta khi thấy một anh em không sống như phải sống hay như ta mong mỏi. Vì vấn đề trước hết không phải là người anh em, nhưng là phản ứng người ấy gây nên nơi ta.

Bằng mệnh lệnh dứt khoát không được “tuyệt thông hay đánh đập”, thánh Biển Đức cấm ta chiều theo cảm xúc trào lên từ vô thức và nhận chìm ý thức của ta. Vì tuyệt thông hay đánh đập sẽ chẳng giải quyết được gì. Điều đó chỉ giúp ta bớt căng thẳng, chứ không đụng tới được những căn cớ sâu xa khiến ta bị căng thẳng như vậy.

Nhưng khi ra lệnh cấm đó, thánh Biển Đức đặt ta vào một tình huống không thể thực hiện được. Ngài để mặc ta một mình trước con quái vật ngóc đầu lên từ đáy lòng ta và đang rình nhận chìm ta hoàn toàn. Khi ngăn chặn cách ứng xử quen thuộc để giải tỏa sức mạnh dữ dội tiềm ẩn trong ta, ngài đặt ta trước một lựa chọn triệt để.

Nhưng ta sẽ làm gì với sức mạnh dữ dội đó? Vì có nguy cơ nó sẽ quay lại chống ta, biến ta thành tội phạm, hạ giá ta xuống, hay còn làm ta oán giận mọi người nữa. Làm sao giáp mặt được với con quái vật đó vốn ẩn nấp trong đáy lòng ta và người anh em đã khiến nó chồm lên mà đôi khi chẳng hay biết? Với thánh Biển Đức chỉ có một phương thế bảo vệ được ta, đó là điều cuốn Thánh Kinh Giêrusalem gọi là “Khuôn ngọc thước vàng”, hay “Luật vàng” (Mt 7,12).

Thánh Biển Đức không trưng dẫn luật này theo dạng tích cực, như thấy trong Mt 7,12 hoặc Lc 6,31, nhưng theo dạng tiêu cực, như trong sách Tôbia 4,15: “Điều con không muốn người ta làm cho mình thì con đừng làm cho người ta”. Chỉ có một phương thuốc giải độc duy nhất cho sức mạnh dữ dội kia, đó là tình yêu. Bước đầu tiên để thực hiện tình yêu này là thuần hóa con quái vật đang ẩn nấp trong cõi tối tăm sâu thẳm của lòng ta, luôn luôn sẵn sàng cắn xé, đánh đập hay tuyệt thông anh em ta. Cách thế duy nhất để thắng nó là tập yêu thương. Và bài học thứ nhất trong trường tình yêu là học để nhận ra rằng mình không biết yêu. Vì thế thánh Biển Đức mới trưng dẫn luật vàng theo dạng tiêu cực. Ai nhận ra mình không biết yêu, người ấy đã thắng được con quái vật nơi lòng họ rồi.

C – Ngày 28.12

Trong chương này, thánh Biển Đức chỉ nói tới việc đánh đập thân xác anh em, nhưng ta cũng có thể làm tổn thương anh em bằng lời nói, bằng thái độ khinh khi, chẳng khác nào như những cú đấm vậy. Đánh đập anh em, loại trừ họ khỏi cộng đoàn, làm như thể không có họ, đó là một cách tự coi mình như quan tòa.

Thánh Kinh đã mạnh mẽ cảnh cáo: ngươi là ai mà dám xét xử anh em? Ngươi nghĩ mình tốt hơn họ sao? Ngươi cho mình là ai? Ngươi viện cớ gì mà hành động như thể ngươi có quyền loại trừ và kết án, trong khi người chẳng tốt hơn họ? Đó là những lời thánh Phaolô trách cứ người Do Thái khi họ tự ý xét xử dân ngoại, nhưng cả ta cũng đáng trách như thế.

Vì đó là mấu chốt của vấn đề: ai loại trừ, ai đánh đập bằng hành động hay lời nói, là tự coi mình có quyền hơn người anh em bị họ xét xử, và hơn cả viện phụ nữa. Như vậy phải chăng cần phải loại bỏ hẳn óc phê bình? Chắc hẳn là không. Nhưng điều quan trọng là cũng phải tập phê bình chính bản thân, với ý thức về tính cách tương đối trong các nhận định của mình. Sự sáng suốt về mình là khởi đầu của khôn ngoan, và là điều kiện để có được phán đoán lành mạnh.

Chương 71

ANH EM HÃY VÂNG LỜI  NHAU

Ngày 29.4 – 29.8 – 29.12       

1 Vâng phục là điều tốt lành, nên không những mọi người phải vâng phục viện phụ, mà anh em cũng vâng phục nhau nữa, 2 vì biết mình sẽ phải qua con đường vâng phục mà đến cùng Thiên Chúa. 3 Vậy, ngoài lệnh truyền của viện phụ hay các vị hữu trách do ngài đặt lên, cha không cho phép anh em đặt một lệnh riêng tư nào lên trên. 4 Còn trong các trường hợp khác, anh em hãy hết lòng yêu mến và ân cần vâng phục đàn anh mình. 5 Gặp ai tỏ ra chống đối, sẽ bị sửa phạt.

6 Khi anh em bị viện phụ hay một vị bề trên nào quở trách, bất luận vì lý do gì, dù nhỏ mọn đến đâu, 7 nếu thấy các ngài hơi tỏ dấu bực mình hay khó chịu một chút, 8 thì lập tức phục ngay xuống đất tạ tội dưới chân các ngài, tới khi các ngài nguôi giận và chúc lành cho mới thôi. 9 Ai không chịu làm thế, hãy phạt phần xác; nếu còn cố chấp, hãy loại ra khỏi đan viện.

Chú giải:

A – Ngày 29.4

Ở chương 58 thánh Biển Đức đặt sự vâng lời cùng với lòng ham thích cầu nguyện và chịu xỉ nhục như tiêu chuẩn để biết đan sĩ có thật lòng tìm Chúa không. Nhưng đó là thứ vâng lời nào? Thật là nguy hiểm nếu ta dựa theo những tiêu chuẩn của thế gian, nơi mà người ta vâng lời vì bị ép buộc (vâng lời như kẻ nô lệ) hay để được lợi lộc nào đó (vâng lời như kẻ làm công). Đức vâng lời đan tu dẫn ta vượt xa hẳn, đưa ta vào mầu nhiệm đức tin, trong khi cho ta nếm hưởng sự tự do cao cả của con cái Thiên Chúa.

Trách nhiệm của viện phụ là không được làm cho anh em chỉ vì sợ hay vì muốn được thưởng mà vâng lời, bởi lẽ làm thế là ngài ngăn cản họ khám phá ra mầu nhiệm đức tin ẩn khuất sau đức vâng lời đan tu. Ở chương 2, câu 6 thánh Biển Đức nói: “Viện phụ hãy nhớ rằng, trong ngày phán xét kinh khủng, ngài sẽ phải tường trình về hai điều: giáo huấn của ngài và việc vâng lời của môn đệ”.

Ở đây thánh Biển Đức đưa ra một gợi ý quan trọng: Viện phụ không có quyền chiều theo cám dỗ muốn làm cho con đường vâng lời trở nên bằng phẳng dễ đi hơn, kẻo ngài lại ngăn cản anh em đi vào mầu nhiệm đức tin, khi họ làm việc gì chỉ do tình yêu, chứ không phải vì thích hay sợ bề trên, hoặc vì không thể làm khác hay vì hy vọng được cái gì.

Nhưng điều đó đòi hỏi anh em phải có đức tin mạnh mẽ, điều đó buộc viện phụ phải tin vào ơn Chúa, đấng có thể làm mọi sự, ngay cả khi xem ra tất cả đều bế tắc và không thể giải quyết được. Nhất là viện phụ phải tin rằng Thiên Chúa có thể đánh động tâm hồn người anh em. Vấn đề vâng phục luôn luôn là vấn đề đức tin.

B – Ngày 29.8

Trong một dịp bầu cử viện mẫu, thấy vài chị em có vẻ không vui, vị chủ tọa đã nói với họ như sau: “Có lẽ các chị không có được viện mẫu theo như mình chọn, nhưng các chị đã có viện mẫu theo đức tin”. Giữa mầu nhiệm đức tin và mầu nhiệm vâng phục mà chương 71 vừa nói có mối liên hệ mật thiết. Khi một số anh em than phiền về sự sa sút của đời đan tu trong sa mạc Ai Cập, các vị cao niên nói rằng không phải vì thiếu cha thiêng liêng để hướng dẫn, nhưng vì thiếu môn đệ biết vâng lời.

Ở chương 58, cùng với lòng ham thích cầu nguyện và chịu sỉ nhục, thánh Biển Đức nêu lên sự vâng phục như một trong các tiêu chuẩn giúp phân định xem đan sĩ có thật lòng tìm Chúa không. Nhưng vâng phục thế nào? Cái nguy là vâng phục theo tinh thần thế gian: vâng phục vì miễn cưỡng, vì hợp ý hay vì tư lợi. Vâng phục đan tu vượt xa những cách vâng phục đó, giúp ta đi vào mầu nhiệm đức tin và cho ta nếm hưởng được sự tự do tuyệt vời của con cái Chúa.

Trách nhiệm của viện phụ là không được làm cho sự vâng phục ra méo mó khi khiến cho anh em vâng phục bởi sợ hãi hay mong được thưởng, vì khi ấy ngài sẽ cản trở anh em khám phá ra mầu nhiệm đức tin ẩn khuất sau đức vâng phục đan tu. Chính vì vậy, ở chương 2 câu 6, thánh Biển Đức khuyến cáo: “Viện phụ phải luôn luôn tâm niệm rằng giáo lý ngài dậy và sự vâng lời của môn đệ là hai điều ngài sẽ bị tra vấn trong ngày công phán kinh khủng của Thiên Chúa”. Ở đây thánh Biển Đức gợi lên một điểm cốt yếu: viện phụ không có quyền làm cho con đường vâng phục dễ đi hơn, kẻo lại ngăn cản anh em tiến vào mầu nhiệm đức tin mỗi khi họ thực hiện một điều gì: không phải vì thích hay sợ bề trên, không phải vì không thể làm cách nào khác được hay vì hy vọng sẽ được gì, nhưng đơn giản chỉ là vì yêu mến.

Nhưng muốn lôi cuốn anh em vào mầu nhiệm đức tin, viện phụ cũng phải tin vào ơn Chúa đấng có thể làm được mọi sự, ngay cả khi mọi sự xem ra đều bế tắc, đều bất khả thi, và nhất là ngài phải tin rằng Thiên Chúa có thể đánh động tâm hồn anh em. Vấn đề vâng phục luôn luôn là vấn đề đức tin.

C – Ngày 29.12

Thánh Biển Đức đối chiếu người anh em chống đối với con đường vâng phục dẫn tới Thiên Chúa. Từ la tinh “contensiosus” có nghĩa là ngoan cố, bướng bỉnh. Từ này có gốc là “contendere” nghĩa là “gắng sức dương ra”, hàm ý chiến đấu, chống cự, hùng hổ muốn thắng. Thái độ này khiến cho ai làm người khác tổn thương sẽ “không chịu nhận lỗi”.

Thánh Biển Đức phác họa hình ảnh con người từ chối đi vào đường vâng phục, vâng phục viện phụ, nhưng cũng vâng phục anh em nữa. Con người như thế sẽ mang hai đặc trưng: Trước hết là chối từ, chống đối, ham muốn bắt người khác nghĩ như mình. Hai là khinh thị người khác, dù bề  trên hay anh em.

Ta có thể tìm ra những lý do tâm lý tạo nên những thái độ ấy, và chắc hẳn có những lý do như thế. Nhưng bước đầu tiên và cốt yếu nhất là ý thức về tình trạng tâm lý đó. Vì chuyện chẳng lành xẩy ra thường là bởi người anh em không ý thức được hành động của mình. Nếu những người khác thấy rõ phải ứng xử ra sao, thì anh em ấy lại không thấy được. Vậy bước thứ nhất là phải ra khỏi sự mù quáng. Thường ta hay tự bào chữa: ấy là tại người khác, điều họ đòi hỏi thật là ngớ ngẩn.

Ta sẽ được cứu thoát ngày nào ta tự hỏi: “nhưng tại sao tôi làm vậy?” Ta sẽ được cứu thoát nhất là khi không chịu để mình bị mắc bẫy, và chấp nhận đi vào đường giải thoát đích thực, đó là đường vâng phục, và trước hết đó là con đường tự giải thoát để có thể chuyên lo tìm Chúa.

Chương 72

  NHIỆT TÂM TỐT LÀNH

CÁC ĐAN SĨ PHẢI CÓ

 Ngày 30.4 – 30.8 – 30.12     

1 Như có thứ nhiệt tâm xấu xa cay đắng làm xa cách Chúa và đưa xuống hoả ngục, 2 thì cũng có thứ nhiệt tâm tốt lành giúp xa lìa nết xấu, dẫn đến Chúa và đời sống vĩnh cửu. 3 Đó là thứ nhiệt tâm mà đan sĩ phải say mê tập luyện, 4 nghĩa là phải ân cần tôn kính lẫn nhau, 5 hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau, 6 thi đua vâng lời nhau, 7 đừng ai tìm theo tư lợi, nhưng tốt hơn hãy mưu ích cho tha nhân, 8 yêu thương nhau trong tình huynh đệ thanh khiết, 9 kính sợ Chúa trong đức ái, 10 mến yêu viện phụ trong tình mến chân thành và khiêm tốn. 11 Tuyệt đối không lấy gì làm hơn Chúa Kitô, nguyện xin Ngài dẫn đưa tất cả chúng ta đến cuộc sống muôn đời.

Chú giải:

A – Ngày 30.4

“Tuyệt đối không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô, nguyện xin ngài thương dẫn đưa tất cả chúng ta đến cuộc sống muôn đời”. Thánh Biển Đức cho thấy bí quyết lớn lao của mọi cộng đoàn đan tu: không phải ‘tôi và Chúa của tôi’, nhưng “tất cả chúng ta”. Vì thế ngài yêu cầu viện phụ đừng làm cho đoàn chiên bị mệt, sợ rằng khi thúc ép chúng đi nhanh quá, những con yếu sẽ chết hết. Mục đích là tới nơi, nhưng “tất cả” cùng tới.

Đó là điều làm cho nhiệt tâm tốt và nhiệt tâm xấu khác biệt nhau. Vì thánh Biển Đức định nghĩa nhiệt tâm tốt như sau: -để ý tôn trọng nhau; -hết sức nhẫn nại chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau; -thi đua vâng lời nhau; -không tìm lợi ích cho mình, nhưng cho người khác; -yêu thương nhau bằng tình yêu trong trắng; -khiêm tốn và chân thành mến yêu viện phụ.

Nhiệt tâm tốt chú trọng tới thiện hảo, tiến bộ và lợi ích của người khác. Nhiệt tâm xấu có thể định nghĩa đơn giản là: “Tôi”. Ta hiểu được nhiệt tâm xấu có thể đi tới chỗ hủy diệt cộng đoàn, bởi vì lợi ích của tôi, những cái làm tôi bực bội, những lựa chọn của tôi mới đáng quan tâm hơn cả. Người khác có mặt cũng chỉ là để phục dịch tôi, vì nhu cầu của tôi.

Với thánh Biển Đức, cộng đoàn là con đường ưu tiên để khám phá ra đâu là tình yêu đích thực. Tình yêu ấy chấp nhận cho người khác cùng lên đường với ta và tin rằng họ có thể thăng tiến. Phúc lớn cho một cộng đoàn khi mọi thành viên cùng nhau tiến bước mà không ai bị bỏ lại bên đường.  

B – Ngày 30.8

 Trong chương 72 này, thánh Biển Đức đối chiếu nhiệt tâm tốt lành với nhiệt tâm xấu xa cay đắng. Tuy nhiên, ngài không bận tâm mô tả thứ nhiệt tâm xấu, nhưng lại nói dài về nhiệt tâm tốt. Nhiệt tâm tốt được biểu trưng bằng một số tương quan với người khác, với Chúa, và với viện phụ. Theo thánh Biển Đức, nhiệt tâm xấu chỉ là sự vắng bóng nhiệt tâm tốt, đó là một thiếu sót.

Thiếu sót này phát sinh những hậu quả như sau: -không tôn trọng nhau; -không chịu đựng những yếu đuối nhỏ mọn của nhau; -không chịu vâng lời người khác; -chỉ tìm lợi ích riêng; -yêu thương cách miễn cưỡng; -tự nhủ: làm gì có Chúa; -không có viện phụ; -không quí chuộng gì hơn bản thân.

Thứ nhiệt tâm tiêu cực, hay nhiệt tâm xấu đó rất giống điều các Thánh Vịnh nói về kẻ nghịch đạo. Ta có thể nhận thức được thứ nhiệt tâm ấy hoạt động trong cuộc đời ta. Và nhận thức này rất có lợi. Nhưng trong lời thánh Biển Đức diễn tả, điều thú vị là nhiệt tâm xấu chỉ là dấu hiệu của sự vắng bóng, là dấu hiệu của sự thiếu tình yêu chân chính, thiếu kinh nghiệm thực sự về Thiên Chúa. Theo nghĩa từ nguyên, kẻ nghịch đạo là kẻ không qui hướng về Chúa.  

Vì cái xấu không hiện hữu, đó chỉ là sự vắng bóng, là từ chối điều thiện. Đó là tình yêu tự chối bỏ mình. Như vậy, nhiệt tâm cay đắng phát sinh từ việc chống cưỡng, việc chối từ khiến ta xa rời Thiên Chúa. Và điều này rất quan trọng, vì nó muốn nói xử lý vấn đề bằng những thay đổi ngoài mặt thì không đủ, nhưng phải tấn công vào tận gốc rễ sự từ chối ẩn tàng nơi ta. Nhiệt tâm cay đắng là triệu chứng của căn bệnh sâu xa này. Đó là dấu báo động cảnh giác ta rằng ta đang chao đảo, đang xa rời Thiên Chúa, để tạo nên hỏa ngục cho mình.

Vì hỏa ngục không phải là tạo thành của Thiên Chúa, nhưng của con người. Và Thiên Chúa tôn trọng con người tới độ cho họ quyền tự do chối từ ngài vĩnh viễn. Hỏa ngục không phải là một nơi chốn, đó là sự chối từ, chối từ dứt khoát và vĩnh viễn, một vực thảm không đáy.

C – Ngày 30.12

Xét cho cùng, với thánh Biển Đức, nhiệt tâm tốt chính là yêu thương bằng hành động. Ngài đã xác định điều đó từ câu 4 đến cuối chương. Vậy, nhiệt tâm tốt là để ý tôn trọng nhau (c.4), nhẫn nại chịu đựng (c.5), vâng lời nhau (c.6), tìm ích lợi cho người khác (c.7), yêu thương bằng tình yêu huynh đệ trong sáng (c.8), mến yêu kính sợ Chúa (c.9), yêu mến viện phụ (c.10), và sau cùng không quí chuộng gì hơn Chúa Kitô (c.11).

Như vậy, nhiệt tâm tốt qui hướng tình yêu về ba đối tượng: anh em, viện phụ, Thiên Chúa và Chúa Kitô. Ba đối tượng này liên kết mật thiết với nhau. Nhưng yêu mến Chúa, đấng ta không thấy, thì dễ hơn yêu mến viện phụ và mọi anh em, không trừ ai.

Nhưng hai tiếng tình yêu có nghĩa ý gì? Ta phải hiểu như thế nào? Có phải là sự xúc động của con tim bùng lên rồi tàn lụi theo thời gian không?

Thánh Biển Đức đảo ngược cái nhìn thông thường, vì không phải yêu mến mà ta vào đan viện, nhưng đúng hơn ta vào đan viện để học biết yêu mến. Và để học yêu, thánh Biển Đức khuyến khích ta thực hiện những hành vi yêu mến này, mà với thời gian có thể biến đổi sâu xa hữu thể ta, thức tỉnh tình yêu đang nằm yên trong đáy lòng ta. Ta khó hiểu được điều đó, vì hay lẫn lộn tình yêu với tình cảm. Với thánh Biển Đức, tình yêu, chính là cách hiện hữu của Thiên Chúa, thì không có phân biệt giữa chúng ta.

Chương 73

BẢN LUẬT NÀY

KHÔNG BAO HÀM TẤT CẢ

CHƯƠNG TRÌNH NÊN THÁNH

Ngày 1.5 – 31.8 – 31.12      

1 Cha viết bản luật này, để khi tuân giữ trong đan viện ta mới chứng tỏ mình sống lương thiện phần nào hoặc mới bắt đầu hoán cải. 2 Còn nếu muốn mau chóng đạt tới đỉnh trọn lành của đời tu thì đã có giáo huấn của các Thánh Phụ, ai tuân giữ giáo huấn này sẽ đạt tới đỉnh hoàn thiện .

3 Thực vậy, có trang nào, lời nào Chúa phán trong Cựu Ước và Tân Ước lại không phải là quy tắc rất mực ngay chính cho đời sống con người? 4 Có sách nào của các Thánh Phụ công giáo lại chẳng lên tiếng dẫn đường chỉ lối cho ta đi thẳng đến với Ðấng Tạo Hóa? 5 Những bài thuyết trình của các Giáo Phụ, các quy chế và hạnh tích của các ngài, và bản tu luật của Cha thánh Basiliô là gì, 6 nếu không phải là những lợi khí luyện đức cho các đan sĩ đạo hạnh và vâng lời đó sao? 7 Còn ta, vốn ươn lười xấu nết và chểnh mảng, hãy coi đó mà tự thẹn.

8 Vậy dù con là ai mà nôn nóng tiến về quê trời, thì nhờ Chúa Kitô trợ giúp, con hãy giữ trọn bản tu luật nhỏ bé này được viết cho người mới bắt đầu. 9 Khi ấy, nhờ Chúa giữ gìn, con sẽ đạt tới đỉnh cao đạo lý và nhân đức cha vừa trình bày trên kia. Amen.

Chú giải:

A – Ngày 1.5

Trong hai câu sau cùng của chương 73 này cũng là những câu sau cùng của tu luật, xem ra như có cái gì mâu thuẫn. Một đàng thánh Biển Đức nói về “bản luật nhỏ mọn dành cho người mới bắt đầu” (c.8), đàng khác, ngài nói tới “đỉnh cao giáo lý và nhân đức” (c.9). Và thánh nhân quả quyết khi “thực hiện” bản luật ấy ta sẽ “đạt tới” những đỉnh cao này. Làm sao đạt tới những đỉnh cao được khi chỉ thực hiện bản luật nhỏ dành cho người mới bắt đầu đời tu? Đó là vấn nạn.

Tôi xin đề nghị hai con đường ta phải đi để hiểu được cái vẻ mâu thuẫn vừa nói. Con đường thứ nhất dựa trên nhóm từ “mới bắt đầu”. Đan sĩ là người mới bắt đầu, nghĩa là người môn đệ, người học trò mới đến trường. Ai coi mình là thầy thì không còn là đan sĩ nữa. Và có lẽ phải mất tới cả một đời để ta học biết được rằng mình chưa biết gì cả, rằng ta cần phải bắt đầu tập đọc lại. Như thế, thánh Biển Đức mời gọi ta đi vào con đường khiêm tốn, là đường duy nhất có thể dẫn tới những đỉnh cao, như chính Chúa Giêsu đã dậy: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

Nhưng ta phải hạ mình xuống, cũng có nghĩa là đi lên, như thế nào? Và đây là con đường thứ hai. Người nào muốn trèo lên đỉnh núi cao thì phải tuân giữ một số luật căn bản. Và không phải vì gần tới đỉnh rồi nên họ được phép khoái chí mà bỏ giây an toàn và gậy cuốc (dụng cụ của người leo núi). Trái lại, càng lên cao họ càng phải khôn ngoan. Ai quên điều đó sẽ rơi xuống liền. Người hạ mình xuống hay là người đi lên theo con đường khiêm tốn cũng phải như vậy.

Kết luận sau cùng là ta chỉ tới được đỉnh cao bằng đức khiêm tốn. Đức khiêm tốn của người bắt đầu lại mỗi ngày, như thánh Antôn nhắc nhở. Đức khiêm tốn của người ý thức được sự giòn mỏng của mình. Đức khiêm tốn chính là cây thang vững chắc để ta trèo lên tới đỉnh cao.

B – Ngày 31.8

Có lẽ ở hai câu cuối của chương sau cùng này ta có thể tìm thấy cách hiển nhiên một trong những nguyên tắc cơ bản của linh đạo Biển Đức. Đó là qua tất cả những điều nhỏ mọn trong cuộc sống, ta có thể đạt tới những đỉnh cao của đời sống thiêng liêng. Sự tương phản diễn tả trong hai câu cuối của chương này có cái gì thật bất ngờ.

Thực vậy, tu luật Biển Đức không quan tâm tới những trạng thái thần bí hay những kinh nghiệm khác thường. Trái lại thánh Biển Đức để ý tới những điều nhỏ mọn trong cuộc sống của đan sĩ: đồ ăn thức uống, thời dụng biểu, công việc, cách thức ngủ nghỉ, cách chào hỏi nhau v.v. Chìa khóa Nước Trời được cất dấu trong những cái tầm thường của cuộc sống trần gian.

Và đôi khi thánh Biển Đức còn làm ta khó chịu vì quá nhấn mạnh tới những cái mà thoạt tiên ta thấy có vẻ như  phụ thuộc và chẳng quan trọng gì. Tuy nhiên, chính nơi những cái tầm thường trong cuộc sống mà thánh Biển Đức đã tìm ra đường ngài phải đi, và ngài mời gọi ta tìm ra nơi đó đường của mình trong khi dõi bước theo vị Thầy thiêng liêng duy nhất đích thực là Chúa Kitô.

Thật vậy, như thư Do Thái quả quyết, chính khi sống cuộc đời con người như ta mà Chúa Kitô học biết vâng phục. Chính khi sống trong cộng đoàn nhỏ bé Nadaret, giữa Thánh Gia, rồi giữa các môn đệ mà Chúa Kitô đã sống ơn gọi làm con. Sao ta lại nghĩ mình có thể làm khác được?

C – Ngày 31.12

Thánh Biển Đức bảo cuốn luật của ngài chỉ là một “bản luật nhỏ bé viết cho người mới bắt đầu”. Ít năm trước đây, trong Dòng ta có những đan sĩ tưởng có thể viết một bản tu luật mới, thiêng liêng hơn, thích hợp với thời đại hơn. Chắc là thánh Biển Đức chẳng ngăn cản họ. Nhưng sáng kiến ấy đã không thành.

Điều đó dễ hiểu, vì khi đọc tu luật thánh Biển Đức lần đầu ta không thể không thất vọng và tự hỏi làm sao mà còn có thể đọc một số đoạn trong tu luật này cho người của thế kỷ 21 nữa. Và có lẽ phải nghe đi nghe lại nhiều lần, nhất là phải sống tu luật này trong thời gian lâu dài ta mới ý thức được nó vẫn hết sức hợp thời, và dưới cái vỏ ngôn từ nó dấu ẩn một sức sống vô tận.

Không phải các đan viện, nhưng là các giáo dân đã cho thấy điều đó. Những người này ham thích tòa lâu đài cổ từ thế kỷ 5 ấy tới độ đã viết ra những bản chú giải về nó. Sự hâm mộ của những người không phải đan sĩ đã lôi cuốn các đan sĩ trở về nguồn cội. Thật là ngược đời, nhưng chuyện ấy đã xẩy ra.

Tại sao có được kết quả như thế, nhất là ở những nơi chẳng ai chờ đợi? Thiết nghĩ nhờ hai lý do thiết yếu. Lý do thứ nhất đó là vì con người thời nay đã chán những lời nói trống rỗng và những hứa hẹn hão huyền. Họ thèm muốn một điều gì có thể thực sự thay đổi cuộc đời họ. Và thánh Biển Đức đã cống hiến cho họ điều ấy: một nghệ thuật sống thiêng liêng. Thánh nhân không nói nhiều về Thiên Chúa, nhưng vạch ra con đường dẫn tới ngài. Thật là cực kỳ hữu ích.

Lý do thứ hai, đó là từ mười lăm thế kỷ nay, mặc dầu vô số tác phẩm thuộc đủ thể loại đã được viết, tu luật Biển Đức vẫn còn đó. Tuy giản dị đơn sơ, tu luật này đã dẫn đưa biết bao người tới hoàn thiện. Như thánh Phaolô nói: “chính anh em là bức thư của tôi”. Chính những người sống bản tu luật này mới làm chứng cho thực chất của nó, chứ không phải những người chỉ nói về nó. Từ mười lăm thế kỷ qua, tu luật này đã chứng tỏ tính xác thực của mình khi dẫn đưa các thế hệ đan sĩ tới “đỉnh cao đạo lý và nhân đức”, như lời thánh Biển Đức cầu mong, và ta được nghe lại ở câu chót của chương 73 này, trong ngày cuối năm hôm nay.

OUR LADY OF SACRAMENTO MONASTERY

14080 LEARY ROAD, WALNUT GROVE, CALIFORNIA

CHÚ GIẢI

TU LUẬT THÁNH BIỂN ĐỨC

THEO TỪNG NGÀY

DOM GUILLAUME JEDRZEJCZAK

Viện phụ đan viện Mont-Des-Cats

Lời mở đầu.                                                                                                                            7

Chương 1  :    CÁC LOẠI ĐAN SĨ                                                                                          22

Chương 2:      VIỆN PHỤ PHẢI THẾ NÀO                                                                              27

Chương 3       VIỆC HỘI Ý ANH EM                                                                                       41

Chương 4:      NHỮNG KHÍ CỤ LÀM VIỆC LÀNH                                                                  46

Chương 5:      ĐỨC VÂNG PHỤC                                                                                          55

Chương 6:      SỰ IM LẶNG                                                                                                   60

Chương 7:      ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG                                                                                   63

Chương 8:      GIỜ THẦN VỤ BAN ĐÊM                                                                                97

Chương 9:      PHẢI ĐỌC BAO NHIÊU THÁNH VỊNH TRONG GIỜ KINH ĐÊM                99

Chương 10:    ĐỌC KINH ĐÊM TRONG MÙA HẠ THẾ NÀO ?                                              102

Chương 11:    PHẢI CỬ HÀNH KINH ĐÊM THẾ NÀO?                                                         105

Chương 12:    PHẢI CỬ HÀNH TRỌNG THỂ KINH SÁNG THẾ NÀO?                                    108

Chương 13:    PHẢI CỬ HÀNH KINH SÁNG NGÀY THƯỜNG THẾ NÀO?                                    111

Chương 14:    PHẢI CỬ HÀNH KINH DĐÊM CÁC THÁNH THẾ NÀO?                                    116

​Chương 15:    PHẢI ĐỌC ALLELUIA THẾ NÀO?                                                                  119

Chương 16:    PHẢI CỬ HÀNH THẦN TỤNG BAN NGÀY THẾ NÀO?                                    121

Chương 17:    PHẢI ĐỌC BAO NHIÊU THÁNH VỊNH TRONG CÁC GIỜ KINH BAN NGÀY 123

Chương 18:    ĐỌC CÁC THÁNH VỊNH THEO THỨ TỰ NÀO?                                             125

Chương 19:    CUNG CÁCH KHI HÁT THÁNH VỊNH                                                             133

Chương 20:    SỤ CUNG KÍNH KHI CẦU NGUYỆN                                                               135

Chương 21:    CÁC TRƯỞNG NHÓM 10 NGƯỜI TRONG ĐAN VIỆN                                    137

Chương 22:    CÁC ĐAN SĨ PHẢI NGỦ NGHỈ THẾ NÀO                                                       139

Chương 23:    HÌNH PHẠT TUYỆT THHO6NG CHO CÁC LỖI                                              141

Chương 24:    MỨC ĐỘ TUYỆT THÔNG                                                                               143

Chương 25:    NHỮNG LỖI NẶNG HƠN                                                                                145

Chương 26: ANH EM KHÔNG CÓ PHÉP MÀ GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI TUYỆT THÔNG           147

Chương 27: VIỆN PHỤ PHẢI SĂN SÓC ANH EM BỆNH NHÂN THẾ NÀO                                     150

Chương 28: NHỮNG NGƯỜI ĐÃ BỊ SỬA PHẠT NHIỀU LẦN MÀ KHÔNG TU  CHỈNH      152     

Chương 29

Chương 30

Chương 31

Chương 32

Chương 33

Chương 34

Chương 35

Chương 36

Chương 37

Chương 38

Chương 39

Chương 40

Chương 41

Chương 42

Chương 43

Chương 44

Chương 45

Chương 46

Chương 47

Chương 48

Chương 49

Chương 50

Chương 51  : CÁC LOẠI ĐAN SĨ
Chương 52
Chương 53
Chương 54
Chương 55
Chương 56 
Chương 57
Chương 58
Chương 59
Chương 60
Chương 61
Chương 62
Chương 63
Chương 64
​Chương 65
Chương 66
Chương 67
Chương 68
Chương 69
Chương 70
Chương 71
Chương 72
Chương 73